IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

6 Trang V  « < 3 4 5 6 >  
Reply to this topicStart new topic
> Bệnh ung thư và nền triết lý cực đông
Thelast
bài Sep 14 2007, 10:36 AM
Bài viết #41


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Người Trung quốc lại khôn ngoan hơn gấp mấy. Họ lúc nào cũng tin cần nơi lời nói ngày xưa dạy bày: “chúng ta hãy đợi, 100 năm sông hoàng hà sẽ trong….”hoặc hãy đợi 20 năm, bọn người Nhật sẽ mất tích, sẽ để lại những toà nhà đẹp đẽ này. Thế rồi trong vòng 10 năm, người Nhật bỏ đi, để lại tất cả cho họ.

Hãy cho đi, cho đi tất cả, vì rằng cái gì các bạn hiện có, đã được người ta vui lòng cho cả. Dầu cho đời sống của các bạn cũng thế. Và sớm muộn gì, hoặc ngay bây giờ, hoặc ngày mai, hoặc đêm nay các bạn phải vĩnh biệt cõi địa cầu này thì làm thế nào biết được, và khi ấy các bạn có đem được của cải của các bạn đã thu tóm theo bên mình được không?

Các bạn phải cho tất cả, chẳng phải kèo nài những gì “Các ngươi hãy giữ gin chớ cho người ta thấy các ngươi tỏ lòng từ tâm trước mọi người, nếu không thể, các ngươi chẳng được phần thưởng của cha các ngươi hiện ở nơi “Thiên đường”

Nếu nhà ngươi cho kẻ nào một cái gì để cho người ta thấy mà khen ngợi hoặc tôn kính, như thế chỉ là việc buôn bán. Thế là nhà ngươi cho mà lấy lại, các ngươi chỉ là nhà buôn bán tầm thường

Khi nhà ngươi làm việc, bố thí, chơ nên phô trương trước mặt nhà ngươi như kẻ giả dối trong giáo đường Do thái giáo và ngoài đường để cho người ta khen ngợi ăn xin nói thật ra rằng, hàng ấy có được phần hưởng”

Nhưng khi nhà ngươi làm bố thí, phải làm thế nào cho tay trái của nhà ngươi không hiểu biết được việc gì của tay phải mà nhà ngươi đã làm

…..Để cho việc làm bố thí của nhà ngươi làm trong vòng bí mật, rồi cha của nhà ngươi sẽ trả cho trong khi ngài nhìn thấy một cách bí mật

“Trong khi nhà ngươi cầu nguyện, chớ nên bắt chước hàng giả dối, họ thường muốn đứng dậy để cầu nguyện trong giào đường Do thái hoặc góc đường để cho người ta thấy. Ta nói thật với nhà ngươi, họ có nhận phần thưởng”

“Trong khi cầu nguyện, chớ nên thắc mắc lời gì như kẻ tà giáo cứ tưởng tượng rằng họ cố sức nhiều lời chừng nào họ sẽ được cầu nguyện”

“Chớ nên giống hạng ấy, vì rằng cha của nhà ngươi hẳn rõ nhà ngươi muốn gì trước khi nhà ngươi nài xin đấy”

Thì đấy, các bạn phải cầu nguyện như thế nào;

“Cái danh của Ngài rõ xinh đẹp,
Chúng con đều phụ thuộc ngài
Cái gì cũng được toại nguyện như ngài muốn
Trên địa cầu cũng như trong vũ trụ
Ngài cho chúng con cơm ăn hàng ngày
Ngài vui vẻ cho chúng con
Chúng con bao giờ cũng phải vui vẻ cho lại tất cả
Xin cho chúng con thật nhiều kỳ vọng
Và vứt chúng con vào trong tay kẻ hung tàn...”

Đố là lời cầu nguyện của chúng tôi hàng ngày. Lời cầu nguyện có vẻ khác với lời cầu nguyện ở kinh thành. Nhưng đây mới thật là bài cầu nguyện do các bạn Tây phương của tôi làm ra trong trại học tập ở pháp năm trên. Trong kinh thánh có lắm lời trái nghịch nhau. Có lẽ trải qua bao thế kỷ nên các nhà Nhã nhặn Phương tây đã làm cho biến chất đi chăng

Sự thật thì lời cầu nguyện của các sinh viên của nền triết lý biện chứng nghịch thường là nghiền ngẫm trật tự vũ trụ vô biên Âm Dương, ở mọi bình diện của đời sống hàng ngày với lòng tri ân vô cùng tận. Chúng ta phải tán thưởng chỗ cấu tạo đại quy mô của vũ trụ vô biên, đem lòng yêu mến như là mối yêu thương vô cùng lớn lao hoặc như là mạch sống của cuộc đời trân quý gấp nghìn lần cục bảo thạch và to lớn như quả địa cầu của chúng ta

Nếu chúng ta xin nài cho có sức khoẻ, trí phán đoán được cởi mở, tự do vv… thế nghĩa là chẳng biết gì trật tự vũ trụ vô biên


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 14 2007, 10:37 AM
Bài viết #42


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4




Công việc của chúng ta trên hành tinh này là nơi chúng ta tạm dừng chân một lúc để vui hưởng tất cả cái gì chúng ta đã thụ hưởng. Nếu đứng trước vấn đề nan giải, chúng ta phải bỡn cợt như con mèo lần đầu tiên trong đời nó được gặp một con chuột lớn hoặc một con chó dữ. Khi ấy chỉ có cách nỗ lực chống cự lại, chỗ thích thú của cuộc đời là thế

Chúng ta là sinh viên của học đường dạy nền triết lý nghịch thường, là nơi chỉ dạy cho không gì khác hơn hai chữ Âm dương. Tại đây chỉ có ngọn gió thoáng qua từ từ giở trong trang sách. Người ta chỉ để một tờ giấy trắng trên bàn chẳng viết một chữ nào. Không cần phải lạm dụng để kiếm ăn. Cái gì cũng cho không không tốn tiền. Các bạn hãy để mặc nhà G S la rống, họ chỉ là một cái máy nói tầm thường, chẳng biết gì hết. Hãy để cho hàng tăng ni và mấy thầy tu tụng niệm cả ngày, họ chẳng biết gì cuộc đời, chẳng biết gì là trật tự của vũ trụ. Hãy để cho hàng đốc tơ quanh quẩn kể bên kẻ hấp hối, họ chỉ là hàng tàn ác và hàng đa phủ. Các bạn chớ nghe lời hàng quan toà, họ chẳng biết gì là công bình tuyệt đối. Chớ nên ăn trong những quán cơm dọn sẵn những cá 5 màu để giết các bạn hơn là để cho các bạn sống mà để hưởng cuộc đời vui thú. Cảnh học đường của chúng ta là cảnh học đường trốn học lớn nhất để đùa bỡn chưa từng thấy, tức là vũ trụ vô biên, là nơi chúng ta phải học có một việc, làm thế nào để hưởng được cảnh tự do vô biên, hạnh phúc vĩnh viễn, làm thế nào tìm đâu cho được cây đèn thần A là đin và tấm thảm bay

Chúng ta phải sáng tạo, sáng tạo niềm vui tươi, hạnh phúc, tự do. Vì rằng chúng ta là những kẻ thừa hưởng của trật tự vô biên. Cuộc đời tức là một trong những cảnh học đường trốn học để đùa bỡn vô cùng lớn lao và hoàn toàn, chúng ta chẳng bao giờ nên giết một con vi trùng. Chúng ta phải đem tất cả đời sống, sức khoẻ và trật tự ra cho. Cuộc đời rõ tốt đẹp chúng ta chẳng có gì là thù địch cả, dẫu cho bệnh ung thư, bệnh thần kinh, các bệnh biến chứng, bệnh tim kẻ phạm tội, đứa bé tội lỗi, các nhà chỉ đạo gây ra chiến tranh…Tất cả đều là bài toán đùa bỡn hoặc là những “bài làm” Vui thú của vị giám đốc giáo sư” vô hình” hoặc vắng mặt trên cõi vô biên kia dạy cho chúng ta thêm được cường cháng, lại cởi mở được chí phán đoán tối cao cho chúng ta

Tại sao người văn minh lại cho những món đồ chơi này như địch thủ chính danh? Tại sao họ quá ôm ấp những tấm lòng bài tha như thế?

Đêm về khuya…Một ông lão da vàng trầm ngâm suy nghĩ một mình tại đây trong một căn phòng bằng tre và giấy, ông lão thấy rõ tất cả các bạn văn minh của ông là những người ông suy tưởng trong tâm não mà đem lòng yêu thương vô cùng rồi ông nghĩ: Tại sao họ dành dật nhau giữ dội như thế? Tại sao chỗ tiến triển của nền văn minh khoa học và kỹ thuật lại sinh ra lắm mối sợ hãi và bất an như thế

Tại đông kinh có một thi sỹ tên là S.Aima, 60 tuổi đã từng học y học triệu chứng tại đại học đường Keiro ở đông kinh. Ông hành nghề đến 47 tuổi, hoặc với chức vụ y sĩ, hoặc với chức vụ quản đốc bệnh viện thế rổi ông bỏ hẳn nghề y học để bắt đầu học về thiên chúa giáo trong một học đường tin lành. Năm 50 tuổi ông tốt nghiệp trường này. Từ đấy ông săn sóc và chữa bệnh cho bệnh nhân với tư cách một vị mục sư. Ông chữa lành được tất cả các bệnh trong khi dậy bày về y học của Jesu tức là y học của yêu thương. Ông có xuất bản nhiều quyển sách, trong có quyển “chía khoá của cách chữa bệnh vi diệu” bán được rất chạy ông tổ chức những phòng đọc sách khắp nơi trong xứ, ông có hàng trăm nghìn người theo ông.

Ông giải nghĩa của các động cơ chữa bệnh mầu nhiệm là dưạ theo lý thuyết của Selie và Relli là hai vị đốc tơ tôi nhận là danh tiếng nhất của người văn minh sau Claudebernard. Nhất là G.S Relli ở paris theo về y học thực nghiệm có thể sánh với Claude B hoặc G nữa về phương diện kỹ thuật.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 14 2007, 10:37 AM
Bài viết #43


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Lý thuyết cách mạng Selye

Năm 1882 Koch phát minh ra được vi trùng lao. Từ đó người ta phát minh ta được lắm thứ vi trùng khác thủ phạm của những bệnh khác. Cái khuynh hướng ấy đã thành ra một thời trang được thừa nhận. Sự thật ra người ta chẳng phát minh ra được tất cả vi trùng thủ phạm của tất cả các bệnh. Số vi trùng bị kết tội đó tương đối vẫn còn ít, vả lại động cơ sinh ra các triệu chứng riêng biệt vẫn hoàn toàn chưa hiểu thấu. Nhất là cội gốc của những vi trùng này chưa tìm ra được. Hơn nữa sự miễn dịch chống lại các vi trùng thật hoàn toàn khó hiểu. Bệnh lý do các vi trùng sinh ra hiện nay đã được phổ thông nhìn nhận kia, chẳng có gì là căn cứ vững chắc

Các vị G.S nếu còn có đôi chút lương tâm, họ phải theo Claude Bernard tuyên bố rằng: “nếu y học mà tôi có bổn phận dạy cho các bạn đây chẳng bao giờ có”

Theo lý thuyết của Selye nếu bộ não trung gian tức là trung tâm của sự cảm xúc được chắc chắn, mạnh khoẻ và đủ sức chống lại các sức mạnh thì không thể ốm được. Nếu quả thế, nhờ nơi một tôn giáo hoặc một nền giáo huấn về đạo đức có một tâm hồn yên tĩnh vĩnh viễn, có thể đủ sức chống chọi lại tất cả các sức lực bên ngoài, chẳng bao giờ có thể ngã ra đau ốm, hoặc có thể hàn gắn lại được mọi chỗ suy nhược của cơ thể

Đốc tơ Aimi vì thế mà cố gắng thiết lập một cảnh yên tĩnh cho tinh thần của bệnh nhân theo như kinh thánh dạy. Ông chữa được tất cả các bệnh, không những bệnh về tâm linh, mà là tất cả mọi vấn đề khó khăn của cuộc sinh hoạt hàng ngày, gia đình vv.. như thế đã có ra từ ngày nào đến giờ. Chữ “bệnh” của tiếng Nhật và Trung quốc dùng để chỉ cách cảm giác có ý thức quân bình” Đốc tơ Selye chỉ có chỗ ấy mới đứng trong vòng chân xác và rất hợp với dùng một loại kích thích tố về thận tạng để có thể giữ lại vẻ quân bình về tinh thần của bệnh nhân, vì ông vốn là một y sĩ triệu chứng. Đấy chính chỗ ấy là giới hạn của nền y học triệu chứng của nền văn minh khoa học và kỹ thuật là một nền văn minh thuộc về phân tích, phân tử, máy móc và phá hoại- đốc tơ Selye không tìm ra thừ làm cách nào cho bộ máy thận tạng hoạt động để cho đủ sức sản xuất ra kích thích tố chẳng hạn. Ông cũng chẳng tìm thử tại sao bộ máy hoạt động không được hoàn hảo. Ông ta là người chuyển về triệu chứng. Y học biện chứng đã tìm ra tại sao bộ máy này phải bị bệnh và cách chữa trị như thế nào từ mấy vạn năm rồi: sự ăn sự uống theo trường sinh đảm bảo cho mọi người được một đời sống lâu dài và trẻ trung mãi.

Lý thuyết của G.S Rielly

Tôi chỉ biết được 4 nhà đại sinh vật mà sinh lý học ở Phương tây một là Claude Bernard, hai là G.S Quinton đã hy sinh trọn đời, nghiên cứu về nước biển và là các giả thuyết cho rằng tất thảy sinh vật đều ở biển đến. 3 là L, Kervran: tác giả quyển Transmutations Biologiques” và G.S Relly. Các ông này chẳng phải nhà khoa học chuyên môn hoặc nhị nguyên luận tầm thường như Aschoff, Paster bà Curie mà là những nhà lý thuyết gia tuyệt đối nhất nguyên luận. Các ông ấy chẳng bao giờ chú trọng đến khoa học vật chất, kỹ thuật nhị nguyên luận. Họ tìm tới cái gì vào sâu hơn, cái gì đó căn để, ít nữa là từ lúc ban đầu. Nhưng khốn thay rốt cuộc họ lại quay trở về nhị nguyên luận. Có lẽ chỉ vì họ nguyên gốc tích thuộc học phái Descartes nên có cái vận mạng như thế

Ngày 5.5.1954 Relly có cho ra quyển sách kết quả của cuộc khảo cứu lâu năm là “phenomenes de Relly” tại hội sinh vật học Pháp. Ông ta trình bày;

1) Không có vi trùng riêng biệt cho bệnh nào
2) Vi trùng chỉ là một yếu tố thúc đẩy một cách nào máy móc dây giao cảm thần kinh hệ ( orthe Sympathique)
3) Người ta có thể sản xuất ra được triệu chứng ho lao, các bệnh truyền nhiễm vv… với bất luận loại vi trùng nào trong khi dùng một cái nhíp nhỏ hoặc một cây kim điện để kích thích trong một chỗ nào của dây giao cảm thần kinh hệ. Chỗ trình bày này xáo trộn tận gốc bệnh lý và vi trùng học càng tàn khốc hơn lý thuyết của Selye

Ngoài ra người ta còn tìm ra:
Người ta có thể miễn dịch cho người để tránh tất cả các bệnh tật sinh ra vì những vi trùng trong khi chỉ làm cho dây giao cảm thần kinh bị loại đi bằng cách dùng máy móc hoặc bằng lối uống thuốc như thuốc Chlorep- romazin

4) Chỗ quan hệ nhất là sức khoẻ hoặc chỗ quân bình tuyệt đối của dây giao cảm thần kinh hệ trong khi chùm dây này dễ bị cảm xúc, tức thì chúng ta phải hiến thân cho vi trùng hoành hoành

Lý thuyết của Relly có vẻ tốt đẹp thay! Lý thuyết ấy xác nhận rằng bệnh tật chẳng phải ở ngoài đưa đến mà là ở trong sinh ra chúng ta là thủ phạm của bệnh tật của chúng ta chứ chẳng phải vi trùng
Đến đây Relly đã đi trong vòng xác thiệt, đúng lắm. Nhưng khốn thay kế theo đó ông lại lầm lạc.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 14 2007, 10:38 AM
Bài viết #44


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Năm 1883 Koch làm cho chấn động, tuyên bố rằng ông ta phát minh ra được vi trùng thổ tả.

Trong một phiên họp để trình bày chỗ phát minh này thì Pettenkofer là một để tử của ông đã uống một ly vi trùng thổ tả là để chứng minh rằng lý thuyết của Koch sai lầm. Pettenkofer uống vào chẳng can gì cả, còn người đệ tử lại chết. Tại sao thế? Bởi vì nhà đại vệ sinh học này có một thể chất dương cứng cỏi và có cả chùm dây giao cảm thần kinh hệ khác hẳn với người đệ tử. Người đệ tử vì sợ hãi, phải bị kích thích đến chùm dây giao cảm thần kinh hệ. Trung gian thần kinh hệ của Pettekofer được khoẻ, không bị một sức mạnh nào chi phối.

Mọi người đều hiểu rằng nếu trung gian hệ thần kinh và chùm dây giao cảm hệ thần kinh được khỏe người ta có thể chống lại được tất cả bệnh tật, chẳng có vi trùng nào xâm chiếm được, chẳng có sức mạnh gì lấn áp.

Vậy làm thế nào cho chùm dây giao cảm hệ thần kinh và trung gian hệ thần kinh được vững chắc? Chỉ nhờ sự chịu đói và chịu khát, những việc gian nan lao nhọc, chịu nóng, chịu lạnh mới có thể làm cho những chùm dây ấy cứng chắc. Những chùm dây ấy phải luyện tập từ khi còn bé thơ, cho đến ngày phôi thai kia nữa, đấy là theo chỗ giáo huấn của nền triết lý cực Đông hoặc phải như thế. Tất thảy những danh nhân thế giới đều un đúc bởi những bà mẹ siêng năng cần cù, chân thật, đã trải qua bao gian nan, nhất là trong thời kỳ thai nghén

Y học triệu chứng đã đi gần với nền biện chứng triết lý

Chỗ nghiên cứu của Relly rõ thật là tiến bộ. Ông phát minh ra được độc tố của kim loại ( diêm sinh thạch tín, niken, chì, chất bạch kim, nhựa thuốc lá vv..) không thể cảm nhiễm được nếu dây giao cảm hệ thần kinh có chích ngừa thuốc Chlerepromazin

Tuy vậy, lý thuyết của Reilly tại Phương đông hoặc trong nền văn minh biện chứng đã biết trước đây mấy vạn năm rồi. Cho đến cả trong nền giáo huấn xa xưa cách trung tâm của nền văn minh, ở phía tận cùng của Phương tây, người ta cũng đã biết rằng:

“Đấy là những phép lạ sẽ theo chân những kẻ tin theo: nhân danh ta họ sẽ đuổi được ma quỷ ; họ sẽ nói những ngôn ngữ mới, họ sẽ bắt nhốt những rắn, họ sẽ uống đôi thứ nước có thể chết được nhưng mà không hại cho họ, họ sẽ đặt tay vào kẻ bệnh tật, kẻ bệnh tật sẽ được chữa lành.

Nhưng nguy thay, Reilly cũng như Selye tất cả người của thế giới Descartes nên lại không chú tâm vào lời nói ấy. Họ quay về y học triệu chứng. Họ bảo rằng muốn được miễn dịch, người ta phải dùng Chlorepromazin để cho bại liệt dây giao cảm của hệ thần kinh trong khi đáng lẽ phải tìm những phương tiện nào làm cho dây giao cảm của hệ thần kinh mạnh lên như vẻ các loại thú hoang. Kìa xem con cá sấu nó lăn lộn vui vẻ dưới con sông nhơ nhớp có vô số vi trùng và độc tố tại Phi châu da đen. Nó chẳng có gì là sức chống đối mạnh, nó ít chết hơn số lính bị thương nằm dưới chiến hào suốt thời kỳ đệ nhị thế chiến, nó chẳng có thuốc kháng sinh, cũng chẳng có thuốc men gì như trong cái bệnh viện mới ở Huê kỳ hoặc ở Gia nã đại là nơi có tất cả các khí cụ cần thiết, kể cả thuốc trụ sinh, chính vì chỗ dư dật và lạm dụng thuộc trụ sinh đến nỗi giết người.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 16 2007, 03:29 PM
Bài viết #45


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



CHƯƠNG VII

CỐ ĐỊNH CỦA BẤT CỐ ĐỊNH


( biến dịch mãi mãi và vĩnh viễn)

Tất cả đều bất cố định trong cõi đời hạn hữu này
Nhưng chỗ bất cố định này mới là cố định mãi mãi
Vì thế cuộc cuộc đời rõ vui thú?
Cố định của cái bất cố định
Chỗ phát sinh lớn lao biết bao
Đem ra so sánh
Tất cả điều phát minh khác của người đều vô ích
Phát kiến ra Mỹ châu
Phát minh ra Radium hoặc pluton
Phát minh ra Radium hoặc Plutonium
Huống là sự phát minh ra luật giả thuyết vạn vật hấp dẫn
Luật bảo thủ quần chúng hoặc khí lực
Thảy đều là ngẫu tượng nhị nguyên luận.
Chẳng có gì là cố định trong đời hữu hạn này
Thế nhưng người ta tìm cái cố định trong cõi đời bất cố định này
Đấy là nguồn gốc của tất cả bi hài kịch của loài người của tất cả tạo hoá.
Tại sao người ta không thấy chỗ cố định vĩnh viễn của bất cố định rõ ràng trước mắt
Tại sao người ta không thấy vô song nguyên lý Âm Dương nó thống trị tất cả các bất cố định?

Vô song nguyên lý A- D là cái chìa khoá của Thiên quốc có 7 thiên giải, nhưng có 6 thiên giải đầu tức là miền thuộc địa của bất cố định và thiên giải thứ 7 là bản thân của cố định vô biên và vĩnh viễn

Nếu người ta rõ được bản chất của 7 thiên giải này và nếu người ta có được cái chìa khoá Âm- Dương cũng gọi là công lý thì chẳng có gì là khó khăn trong cõi đời tương đối và hữu hạn này

Tôi muốn giải thích cho các bạn rõ ràng có một nghìn lẻ một phương pháp chữa bệnh ung thư. Những biến chứng đau tim, thần kinh vv… Sự thật thì mỗi phương pháp chữa bệnh đều thuộc về mỗi cá nhân, tin cậy có vô số phương pháp. Ấy là phương pháp miễn dịch, ấy là bản thể của sinh mệnh.

Nhưng có hai cách chữa bệnh: Phương pháp triệu chứng và phương pháp căn bản: Phương pháp căn bản chỉ chữa 1 lần đã tuyệt căn, lành được bệnh mãi mãi, còn phương pháp về triệu chứng chỉ có hiệu lực tạm thời và khó khăn. Phương pháp căn bản là phương pháp duy nhất áp dụng cho tất cả các sinh vật, nhưng cách chữa trị riêng biệt từng cá nhân, vì thế phải có nhiều màu sắc cấp bậc.

Con người cố gắng hết sức để tìm một phương pháp chữa trị bệnh ung thư một cách tạm thời nhưng vô ích. Người ta có thể tìm ra hàng vạn cách, nhưng thảy đều tạm thời và chữa theo triệu chứng, không có gì căn bản. Cuối cùng người ta phải áp dụng phương pháp căn bản.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 16 2007, 03:31 PM
Bài viết #46


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Tôi xin giải thích cho các bạn được rõ hai việc rất quan trọng.

1) Người ta có thể chữa trị các bệnh gọi là “nan y” hoặc “kinh niên” 1 lần đã lành mãi trong khi áp dụng nền triết lý y học từ nghìn xưa lưu lại hoặc về phương diện tinh thần hoặc về phương diện tiết thực biện chứng

2) Các bạn phải nghiên cứu nền triết lý biện chứng và thực tiễn trước nhất đã có thể hiểu cách áp dụng trong việc chữa bệnh và cho thuốc, trong phương diện tinh thần và tiết thực. Nền triết lý này có chỗ vui thú và có chỗ lợi ích cao xa: chỉ là một nghệ thuật để suy tưởng, phán đoán tất cả các tư tưởng, tất cả các hành vi và sự hoạt động, và tất cả kỹ thuật, với nền triết lý này người ta có thể biến hoá tất cả tai vạ ra hạnh phúc, tất cả khó khăn ra vui thú, tất cả nỗi âu sầu ra lòng biết ơn, tất cả điều sấu xa ra tốt lành, nghèo ra giàu, bệnh tật ra khoẻ mạnh, cảnh yếu đuối ra mạnh bạo, và tất cả nỗi ấy dần dần thoát ra: cái tai vạ lớn nhất thành ra cái hạnh phúc lớn nhất.

Thử hỏi tôi đã thực hành hai điều kiện này chưa?

Các bạn có biết điểm thứ nhất là gì không? Các bạn chỉ cần kiểm thảo lại tại chỗ nếu còn có vẻ nghi ngờ

Các bạn cũng có thể nhìn nhận được điều đề nghị thứ nhì của tôi một cách lý hội được. Nhưng tôi không tin gì ở các bạn được. Một việc quá khó khăn cho các bạn đấy, các bạn văn minh ạ. Tôi nói thế là vì từ mấy năm nay tôi đã đem ra thí nghiệm tất cả với các bạn là hàng có giáo hoá; đấy là chỗ quá khó khăn! Nhưng ngay bây giờ tôi lại vui mừng nếu trong mỗi xứ có một nhóm người lưu tâm đến việc nghiên cứu này.

Rõ khổ thay cái triết lý biện chứng và nghịch thường này. Đây là một quan niệm và vũ trụ khác hẳn quan niệm của các bạn. Tại sao nó lại quá khó khăn như thế!

Chỉ vì nó quá giản đơn! chỉ có 2 quan niệm chống đối nhau: Âm và Dương. Chỉ có thế, nhưng các bạn phải áp dụng vô song nguyên lý có thể phân cực này trong đời sống của các bạn hàng ngày, do đó các bạn sẽ thấy có vẻ tối tăm, nhưng đồng thời là vô cùng vui thú.

Từ ngày có cách mạng khoa học lúc thế kỷ 17 lại đây khoa học Phương tây vượt một bước khá dài, phá tan quyền lực của phái Thiên chúa giáo Aristote: Francois Bacon công kích kịch liệt 4 ngẫu hứng, kế đó nền khoa học thực nghiệm dựng lên, thực nghiệm chủ nghĩa- lý thuyết của Copernic xác nhận quan niệm của vũ trụ theo cổ điển. Tiếp đến cơ giới, y học thực nghiệm…thực dụng chủ nghĩa buộc phải quan sát, miêu tả, thực nghiệm chính xác và nghiêm chỉnh có vẻ chủ quan, chọn lọc chia ra: chuyên môn, am luyện…Cuối cùng tức là cõi diệt vong của quan niệm nguyên tử, những công việc biến thể, công việc chế tạo 35.000 quả bom khinh khí… cảnh bấp bênh và sợ hãi lan tràn- thử hỏi nền văn minh khoa học và kỹ thuật sẽ đi sâu vào đâu?

Đấy là chỗ bất cố định của thế giới hữu hạn và tương đối chúng ta:

Một ngày kia chúng ta sẽ thấy một tai hại, chỗ chung cuộc của toàn thể nhân loại chỗ sản xuất một thế giới vô cùng mới mẻ, kỷ nguyên loài người, sau kỹ nguyên loại thú. Tất cả cách biến đổi trên này đều thuộc về vật chất, cảm giác, cảm tình, vật lý hoá học, trí tuệ , kinh tế, kỹ thuật mà chẳng phải thuộc về nhân loại bây giờ tức chung điểm của một loại biến hoá về khoa hoc kỹ thuật và chỗ khai thể của một loại biến hoá khác mà lâu nay chưa từng biết tới. Chỗ ấy tức là chỗ cởi mở trí phán đoán của tự loài người làm lấy.

Tất thảy dung mạo của chúng ta đều tuỳ thuộc trí phán đoán của chúng ta, cái tốt cái xấu điên cuồng hay sáng suốt, chiến tranh hay hoà bình…hạnh phúc hay tai vạ vv.. Nhưng có 7 giai đoạn của trí phán đoán: trí phán đoán mù quáng hay máy móc, cảm giác, cảm tình, trí tuệ, xã hội, lý tưởng và trí phán đoán tối cao. Trí phán đoán làm cội gốc cho nền văn minh khoa học và kỹ thuật thuộc về giai đoạn thứ nhất hoặc thứ nhì từ trí phán đoán máy móc hoặc cảm giác. Bây giờ chúng ta phải nghe theo lời một trí phán đoán hơi cao hơn.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 16 2007, 03:32 PM
Bài viết #47


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Cuộc cách mạng vật lý, kinh tế và kỹ thuật tiến bộ cách lạ lùng. Chúng ta đã bước tới với một tốc độ ghê gớm. Thế thì tại sao không làm như thế trong khuynh hướng mới này tức là về đạo đức triết lý hoặc lý thuyết? Tại sạo thế?

Đấy là câu hỏi quan trọng nhất.

Chúng ta phải áp dụng một la bàn tức Âm Dương….. Cái biện chứng có thức tiễn này tức là luận lý bao trùm toàn thể. Chúng ta chớ nên lẫn lộn khí cụ này là một khí cụ quá sức đơn giản không một ai không sáng chế và sử dụng được dễ dàng, khác hẳn quyền lực của học thuyết Aristote hoặc quyền lực của Thánh thư đã được tôn vinh làm thần thánh

Nền văn minh khoa học và kỹ thuật nay mai sẽ sụp, và khi đã nắm được la bàn Âm Dương này, sẽ có một ngày thay đổi khuynh hướng và thế nào cũng gây ra một cuộc cách mạng chưa từng thấy nháo nhào gấp mấy lần- Vì là tận gốc- Cuộc cách mạng gây ra cho lý thuyết Coperrie. Khoa học và kỹ thuật ngày nay là nhị nguyên luận và thuộc về chế độ ptolemee- khoa học và kỹ thuật ấy tất cả đều có tính cách bài tha, vật lý và hoá học nó chẳng biết gì tới sinh mệnh, không biết gì là ký ức hoặc động cơ của tư tưởng, tinh thần vũ trụ, không biết gì đến vô biên và tuyệt đối nữa, không biết gì về vật chất, về điện khí lực về hạnh phúc vĩnh cửu, về công bình tuyệt đối- khoa học kỹ thuật ấy hoàn toàn mờ ám vì các bức tường hạch tâm khoa học, kỹ thuật tiến bước cũng như đoàn thám hiểm Cook Ddcake hoặc Chistophe Colomb, cứ thả thuyền chạy một cách dò dẫm chẳng biết địa dư là gì, chỗ nhận thức rất là cần kíp để làm cho khoa học và kỹ thuật phục khởi, đó là tâm trạng của người mà trí phán đoán tối cao tức là cái la bàn tối cần trong việc hàng hải để nhắm tới thế giới.

Nhưng dầu cho rất ai ít nghe theo các bạn cũng chẳng sợ gì. Bảy giai đoạn của trí phán đoán thuộc đẳng cấp thấp kém nhất là đẳng cấp nhiều người ở nhất.

Cái mặt càng to cái lưng càng lớn

Nếu bệnh ung thư là bệnh “nan y” nhất, thế thì càng dễ chữa trị nhất nều các bạn tìm ra được căn nguyên thì chiến thắng nó dễ dàng mà căn nguyên ấy chỉ là bản thân của các bạn, là con người ấy. Đã tìm ra được căn nguyên, các bạn sẽ hiểu tại sao lại có bệnh ấy. Nếu các bạn tìm ra được căn nguyên, các bạn chỉ thay đổi phương hướng của nền văn minh các bạn là nền văn minh lần tới cõi mờ ám, thế là các bạn có thế cứu chữa được không khó gì. Theo đó thì bệnh ung thư tức là kẻ cứu nguy cho chúng ta

“Thương cho voi cho vọt"
“Ăn miếng trả miếng” và “Ăn một hột trả mười ngàn”

“Ăn miếng trả miếng” gây ra cái tâm trạng trẻ con và dã man ẩn nấp trong đáy lòng y học triệu chứng. Đấy là một tâm trạng đấy những chống đối, trù rữa. Gọi rằng địa ngục cũng là tâm trạng ấy.

Nhưng mà nền triết lý sinh vật học cực Đông nói rằng: “Mười ngàn hột trả lại cho một hột”. Một hột trả thành 10.000 hột. Ây là luật căn bản của sinh vật học. Một hột tự hoại lấy mình để trả lại 10.000 hột. Nếu có người nào phí công giúp đỡ cho các bạn trong 10 giây đồng hồ, các bạn phải gấp trả ơn lại 10.000 phút. Đấy là chỗ tỏ lòng niềm nở sâu sắc. Nều kẻ ân nhân của bạn không còn sống ở đời nữa thì bạn trả lại cho bà con của kẻ ấy. Nếu người ta móc một con mắt của bạn, bạn hãy thụt lùi lại và tìm cho ra nguyên nhân của sự hung tàn ấy. Nếu lỗi lầm ấy là của địch thù , cái lỗi lầm vì họ chẳng hiểu biết gì hết, bạn hãy tìm cách khéo léo mà chữa cho họ. Nếu các bạn không tìm ra được cách cảm hoá cho họ được khéo léo, ấy là lỗi lầm của bạn. Sau khi cải hoá kẻ cố ý làm hại bạn thành người ân nhân, bạn hãy tìm cho ra được 10.000 người như thế để cải hoán họ. Công việc này chỉ có áp dụng trong xã hội loài người. Trong cõi thiên nhiên bạn bao giờ cũng là kẻ đắc tội. Bao giờ cũng là tội lỗi của bạn. Nếu các bạn rủi mắc bệnh ung thư, một bệnh biến chứng hoặc bất kỳ bệnh gì, trước nhất phải tìm cho ra nguyên nhân lỗi lầm của các bạn tại chỗ nào…… Các bạn tìm nguyên nhân của “bệnh phổ thông. Nguyên nhân ấy bao giờ cũng ở trong dung mạo của người bị bệnh. Hãy truyền bá lại cho 10 ngàn người được hiểu biết về chỗ bạn đã tìm tòi ra nguyên nhân ấy.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 16 2007, 03:33 PM
Bài viết #48


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Trả 10.000 hột lại cho 1 hột” tức là biểu lộ tâm trạng biết ơn một cách sâu sắc vô biên. Tức là sự vui thú vô biên. Hoà bình là chỗ đó

Chớ nên chống chọi lại một ai, dầu cho đối với kẻ tàn bạo cũng thế. “Nếu kẻ nào đánh má phía tay mặt của nhà ngươi, nhà ngươi hãy đưa mà tay trái ra” Nói thì hay đấy, thực hành thì khó vì trí phán đoán đê hèn của chúng ta, trí phán đoán cảm giác hoặc cảm tình ngăn trở không cho chúng ta làm được như thế. Triết lý của tôi dạy cho chúng tôi: “Nếu có kẻ muốn đánh hoặc giết nhà ngươi là lỗi tại nhà ngươi, chỉ vì nhà ngươi làm cho kẻ ấy nổi giận, chớ nên cãi vã, chơ nên chống đối vô ích. Hãy ân cần xin lỗi họ và nhà ngươi quay bước đi, vì nếu nhà ngươi con ở lại chỗ ấy, thì càng làm cho họ nóng giận thêm. Nhà ngươi cố gắng ăn ở thế nào cho họ mến nhà ngươi, hiểu thấu nhà ngươi, tán thưởng nhà ngươi và hết lòng cảm ơn nhà ngươi vô cùng tận. Nếu họ thương yêu, họ sẽ nghe tất cả lời nhà ngươi nói ra và sẽ cho nhà ngươi tất cả cái gì họ có hơn là đánh hay giết nhà ngươi. Tất cả đều tuỳ thuộc vào sự khôn khéo sắp xếp. Nhà ngươi phải học cách làm sao chinh phục được người mà không cần nói, vì “làm sao cho được bất chiến nhi thắng”. Triết lý của chúng tôi cũng dậy cho biết rằng trong đời này chẳng có kẻ nào là thù địch, chẳng có kẻ nào là người làm hại kể cả vạn vật xã hội và loài người, chỉ có sự hiểu lầm nhau, không hiểu nhau hoặc dàn xếp không được ổn thỏa.

Như thế tức là cách diễn đạt của tôi về câu nói:

Hãy thương yêu kẻ địch thù của nhà ngươi và cầu nguyện cho kẻ tàn hại nhà ngươi

Chỗ diễn đạt về sinh vật và sinh lý học của tâm trạng này là nền y học Phương đông. Nhưng tôi thiết nghĩ rằng nền y học triệu chứng của người văn minh là trái hẳn, chỉ là nền y học chống đối, của nguyền rủa, chỗ chống đối bao giờ cũng cho bệnh tật như là một thù địch chính danh.

Chống đối tức là địa ngục. Nếu các bạn giết một địch thù chính danh, thế là các bạn đồng thời mất cả lẽ phải chăng. Tức là các bạn tự tử. Các bạn không còn là kẻ chiến thắng nữa, vì địch thù của các bạn không còn đó nữa. Hoặc giả có một địch thù khác nữa xuất hiện, lần này các bạn phải trở lại bị thua. Sự báo thù tự nhiên kẻ trước trở thành kẻ sau. Đứa con có trước người “cha” và “mẹ” vì ông cha và bà mẹ chỉ có chăng là sau khi đẻ đứa con ra. Chiến thắng tức là bại trận. Tất cả đều là bài thi luận nghịch độc trong cõi đời hữu hạn này. Cuộc đời rõ là nghịch thường. Sinh mệnh có mãi mãi và cần có mãi mãi, vì sinh mệnh chẳng có khởi điểm và chẳng có chung điểm. Cái chết không có; Nghĩa là cái chết không thể có mãi mãi. Cái chết tự nó sẽ có một chung điểm mãi mãi. Cái chung điểm mãi mãi là cái vô hữu. Cái chết đã đến rồi.

“Đời sống là cõi chết” Claude Berrnard đã nói như thế, ý ông ta nói rằng “cuộc sống còn là con đường dẫn ta tới cõi chung điểm chết hoặc giả cõi sống và cõi chết tức là danh hiệu riêng biệt của cùng một việc người ta không biết tới. Chứng thư của đời sống phải chăng là cõi chết?

Nền triết lý Phương đông chỉ cho thấy một cảnh sắc toàn diện của vũ trụ vô biên và dạy cho rằng cuộc đời là vĩnh viễn, rằng cuộc sống còn là “hiện hữu”, còn cái chết tức là chỗ thiếu thốn cảnh sắc hữu hình vô giới hạn và toàn cảnh, không những trong không gian mà thôi mà cả trong thời gian nữa. Chẳng bao giờ có cái chết. Cái chết chỉ là sự tưởng tượng của kẻ sợ sệt vì lý do tinh thần bị mờ ám, trí phán đoán tối cao bị che bịt

Nền triết lý bao quát, thực tiễn và biện chứng dạy cho chúng ta phải làm thế nào sống một cuộc đời dài và vui thú, vô tân đẹp đẽ, không gì là sợ hãi. Chỉ duy kẻ nào có lòng sợ hãi mới có các địch thù, mới biết sự chống đối và sự khó khăn. Triết lý dạy cho chúng ta phải làm thế nào hoàn cải những địch thù chính danh thành ra những bạn bè chí thiết bất ly.

“Một thế hệ xấu xa và bất chính đòi hỏi một tín hiệu”

Đây là một đệ tử của ta chon lọc. Người chí thiết mà ta gửi thân phận vào đấy ta để tâm trí vào y và y ban bố Công lý cho các dân tộc. Y không chống đối thưa kiện gì, không van nài gì. Và ngoài đường phố chẳng có một ai nghe tiếng van la của y

Y chẳng bao giờ bẻ phá cây sậy đã bị gẫy. Và chẳng bao giờ tắt ngọn đèn đang cháy. Mãi cho đến khi nào công lý được đắc thắng, tất cả dân tộc nhờ y mà tràn đầy kỳ vọng.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 17 2007, 08:23 AM
Bài viết #49


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



PHỤ LỤC 1

THÀNH PHẦN CỦA BIỆN CHỨNG ÂM DƯƠNG


Âm là sức ly tâm lực, sức bành trướng, giãn nở ra, loang ra, sũng sụt.

Dương là sức cầu lực, sức co súc, thun lại, ép lại, ngưng tụ.

Dương là sức cầu tâm lực sinh ra khi nóng, ánh sáng, phát quang nóng ( màu đỏ, xích ngoại tuyến) sự hoạt động, cái khô khan, cái gì nặng, cái gì có sức “muốn rơi xuống, cái gì cứng, cái gì ngưng tụ, hình ảnh chất lửa lủn đủn, rùn thấp”.

Trái lại Âm hay là sức ly tâm lực, sinh ra khí lạnh, cảnh tối tăm phát quang lạnh( màu tím, cực tím) cảnh thụ động ẩm thấp, cái gì nhẹ cái gì có sức muốn bay bổng lên, cái gì mềm, loang ra, hình chất cao, nhỏng đứng sựng

Gọi một vật Dương là khi nào sức cầu tâm lực của vật ấy thắng sức ly tâm lực. Và trái lại, một vật Âm là khi nào sức ly tâm lực của vật ấy thắng sức cầu tâm lực

So với đàn bà thì đàn ông hoạt động hơn, da sậm hơn, thịt có vẻ rắn hơn, ít béo, bắp thịt cứng hơn, số bách phần về xích huyết cầu nhiều hơn

Nghĩa là ở đàn ông thì sức cầu tâm lực chiếm nhiều hơn đàn bà.

Âm và Dương càng thu hút nhau. Âm và Âm, Dương và Dương xua đẩy nhau. Âm sinh ra Dương tuỳ theo với thời gian và không gian. Tất cả cái gì Dương ở trung tâm thì Âm ở biểu hiện.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 17 2007, 08:25 AM
Bài viết #50


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



PHỤ LỤC II


Chứng cảm mạo thường, từ ngày khởi thuỷ của y học đã có thế mà chưa có một phương pháp gì chữa trị cho lành hẳn. Tất cả những gì của y học đời mới là một y học đầy quyền lực và quang vinh đã dùng để chữa bệnh cảm mạo chỉ là cách rửa tội lần thứ 2 cho nó là mệnh danh “bệnh biến chứng phổ thông”. Chữ biến chứng có một chữ có vẻ tà thuật chẳng có nghĩa gì, chỉ có che lấp lối dốt nát ngạo mạn, vô trách nhiệm của các y sĩ “khoa học” từ mấy thế kỷ nay. Gần đây chính phủ Mỹ định bỏ ra 20 triệu mỹ kim để tìm cho ra một thứ thuốc chích từ bệnh cảm mạo thông thường. Bỏ ra một số tiền như thế để tìm một vị thuốc chỉ có thế chữa lành tạm và chữa triệu chứng, phải chăng là một trò khôi hài? Và nếu người ta tìm được một loài thuốc chính cho 100.000 người hay hàng ngày bị cảm mạo thông thường, còn cần phải chuyên tới việc chữa trị bệnh cảm mạo truy nhiễm hàng năm tại Huê kỳ có hàng 30 triệu người mắc phải.

Nhưng cũng chưa hết: chớ nên quên rằng tổng thống Eisenhower đã tuyên bố trong kỳ hội nghị năm 1954 rằng có 5 triệu người Mỹ hiện sống ngày nay sẽ chết vì bệnh đau tim. Lại theo bản thống kê chính thức, 128 triệu người Mỹ đang đau đớn vì các bệnh kinh niên….Vậy còn phải phát minh ra bao nhiêu vị thuốc nữa để lấp vào chỗ thiếu thốn của đội quân chủng đậu mà thiệt số cứ càng ngày càng tăng gia từ thời của Jenner và Pasteur đến nay? Và càng hơn nữa, chẳng có một chút gì thật sự, vì rằng phương pháp làm cho các triệu chứng mất đi một cách kỳ diệu thì vô số các bệnh khác càng tăng gia một cách không ngớt.

Bệnh cảm mạo thông thường được mệnh danh trở lại là “bệnh biến chứng” nhưng trong khi chờ đợi, bệnh ấy vẫn có luôn luôn và càng ngày càng gia tăng lên nữa…. Một điều lạ lùng là chẳng có một sinh vật nào mắc phải bệnh ấy như loài người, nào cọp, voi, chim, sâu bọ, chẳng một giống gì mắc phải, dẫu đến loại cá hoặc Planaria, huống là loài cỏ cây. Chúng sống một cách khoẻ mạnh không cảm mạo, mà cũng chẳng có lò sưởi chung, chẳng có áo ấm bằng len và áo da lông cướp giật ở các loài thú khác.

Thử hỏi tại sao không tìm cho ra nguyên nhân vì đâu những loại thú vật, chim chóc, cá, sâu bọ chẳng bao giờ bị cảm mạo! chán ngán thay, người ta có nghĩ tới những giống ấy chăng chỉ là nghĩ tới để mà giết chúng nó…

“Nếu như cần phải tự sát tôi đã tự vệ, tôi muốn rằng thà tôi bị giết đi”, Gandhy nói như thế. Ông ta than vãn trọn đời rằng ông ta không thể nào bỏ được sữa dê, nghĩa là không thể nào sống một cuộc đời không bóc lột các sinh vật khác.

Sát hại giống sinh vật khác tức tự sát mình. Bóc lột các sinh vật khác sống nương tựa nơi một công việc nô lệ cũng tức là tự sát mình: Sống nhờ nơi sức sản xuất của kẻ khác, thế là người ta làm cho suy nhược và giảm sức lực tự sản xuất của mình, sức sản xuất và sáng tạo chẳng gì khác hơn là cuộc sống còn theo như triết lý của phe giáo. Con người đời nay văn minh và bóc lột tất cả các thú vật khác, chưa nói bóc lột kẻ đồng loại của họ càng ngày càng mắc chứng cảm mạo dầu hàng năm tiêu thụ của Huê kỳ đến cả nghìn tấn thuốc asspirine. Nhưng bệnh cảm mạo chẳng những là bệnh tạm thời, chỉ mất một số ngày làm việc mà thôi. Mỗi lần người ta bị cảm mạo, cũng phải trả một giá rất đắt, đắt lắm, với hình thức các động mạch và cân nhục bị cứng lại.

Theo vô song nguyên lý của khoa học và nền triết lý cực Đông thì nguyên nhân của bệnh cảm mạo tức là thân thể chúng ta bị Âm hoá. Chúng ta đã ăn quá nhiều thức ăn Âm, nghĩa là loại có nhiều sinh tố chất giáp, chất cái (Calcium), xích lân (phosphre), nước và không để ý tới số tỉ lệ cân đối Âm Dương trong các thức ăn. Đáng lẽ phải điều chỉnh tỷ lệ Âm Dương trong thức ăn chúng ta chặn đứng nguyên nhân của bệnh thì chúng ta lại thích uống vào loại thuốc có tính chất cực kỳ Âm nó có hiệu lực tẩy trừ các chứng và dẫn chúng ta đến một cảnh đau ốm liệt nhược hơn.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post

6 Trang V  « < 3 4 5 6 >
Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 13th June 2024 - 08:43 AM