![]() |
![]() ![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#21
|
|
![]() Rinkitori Tojimomi ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 125 Gia nhập vào: 7-February 07 Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ Thành viên thứ.: 3 ![]() |
20. Một bệnh nhân ung thư hạnh phúc
Tháng 5 năm 1981 Vào đầu năm 1981, Vega đón chào một bệnh nhân ung thư, một người đàn bà tới từ thành phố California. Bà bị ung thư vú; vú bên trái bị cắt bỏ vào cuối mùa hè năm ngoái và bây giờ vú bên phải bắt đầu bị ác tính. Bà tới gặp tôi vào cuối tháng 10 năm ngoái để hỏi ý kiến về việc ăn kiêng. Sau khi hiểu rõ, bà về nhà và tiếp tục ăn uống theo Thực Dưỡng. Để nghiên cứu các nguyên tắc và cách nấu ăn Thực Dưỡng, bà lại tới Vega. Khi lần đầu tiên tới, bà bị đau ở lưng cả đêm. Nếu từng bị như vậy, bạn sẽ cảm thông biết chừng nào. Bà không thể đặt lưng nằm xuống vì sự đau đớn. Hàng sáng chúng tôi tập Sotai, tự tập cho mình và hai người làm cho nhau. Một tuần sau, cơn đau của bà biến mất. Bà có thể ngủ ngon và không bị cơn đau hành hạ nữa. Thật là vui mừng. Bà có thể nằm trên sàn mà không bị đau. Bà thích thú với việc chế độ ăn kiêng của mình. Sức khỏe bà tốt lên từng ngày. Tôi chưa từng nghe lời phàn nàn nào của bà. Bà mạnh khỏe hơn nhiều so với những người gọi là khỏe mạnh. Bà gây một sự ngạc nhiên lớn cho tôi. Sự ngạc nhiên lớn nhất là vào buổi giảng cuối tại Vega. Khi đó tôi đang nói về “bản chất hạnh phúc”. Tôi nói: George Ohsawa có lần nêu định nghĩa về một con người hạnh phúc. Ông nói người hạnh phúc là người muốn làm lại cuộc đời mình từ lúc bắt đầu sinh ra cho tới giờ. Ngay khi tôi nói ra điều này, bà nói: “Tôi cũng thế!”. Thực tế, bà đã tâm sự cảm giác của mình với những học viên khác trước khi tôi nói ra điều đó. Do đó, suy nghĩ của bà không phải là kết quả của điều mà tôi nói ra. Tôi chưa từng gặp người nào sẵn sàng làm lại cuộc đời của mình lần nữa, chính xác theo cách như vậy. Phần lớn con người ta đưa ra những điều kiện mà họ muốn thay đổi. Nhưng bà chắc chắn là một người hạnh phúc. Bà là một bệnh nhân ung thư hiếm hoi. -------------------- Mini chan ga ichiban
![]() ..::Mini::.. |
|
|
![]()
Bài viết
#22
|
|
![]() Rinkitori Tojimomi ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 125 Gia nhập vào: 7-February 07 Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ Thành viên thứ.: 3 ![]() |
21. Từ bệnh tim đến bệnh ung thư
Tháng 7 năm 1981 Trước kia tại Mỹ số tử vong vì bệnh tim và tim mạch là mối lo sợ hàng đầu của dân chúng. Đến nay thì thống kê của chính phủ cho biết tỷ lệ tử vong vì các bệnh này đã giảm đi 10% đối với bệnh tim và 16% đối với bệnh tim mạch (từ 1960-1977). Sức khoẻ của dân chúng đã cải thiện rồi chăng? Trong 20 năm qua, các ăn uống đã đổi thay rất nhiều. Có 5 điểm sau đây giải thích sự thay đổi này: 1. Vào năm 1962, sau khi Rachel Carson viết cuốn “Mùa xuân yên tĩnh” thì vấn đề ô nhiễm môi sinh được chú ý rất nhiều. Mọi người quan tâm đến thực phẩm và chọn các thực phẩm thiên nhiên, không tinh chế, không bị pha trộn thuốc bảo quản hay màu thực phẩm. 2. Ancel Keys đã hướng dẫn một cuộc thực nghiệm với 12.000 người, suốt thời gian từ 1948 đến 1960 và kết luận rằng các bệnh tim và tim mạch đều do lượng cholesterol cao trong thực phẩm gây ra. Bản báo cáo của A. Keys đã được đăng ở trang bìa của thời báo Times khoảng năm 1960. Lúc ấy tiên sinh Ohsawa đang ở căn chung cư của tôi tại Nữu Ước và tiên sinh rất thích bài báo ấy. Bài báo khuyến cáo dân Mỹ hãy giảm bớt các thức ăn quá béo như thịt bò, heo, gà, trứng và pho mát, khuyến khích nên dùng dầu thực vật thay cho mỡ động vật, bơ thảo mộc thay cho bơ động vật, dùng sữa ít chất béo hơn sữa thường dùng... 3. Có một sự thay đổi lớn lao trong chế độ ăn uống của người Mỹ là nhờ bác sỹ người Anh tên là Denis Burkitt. Ông từng làm việc tại một bệnh viện ở Nam Phi vào thập niên 1950 và ghi nhận rằng có một bộ lạc không có bệnh tim mạch trong suốt 5 năm. Ông rất thắc mắc và muốn tìm rõ nguyên nhân. Ông thấy dân bản xứ chỉ ăn 10% chất béo trong số thực phẩm thường dùng hàng ngày mà họ còn ăn thức ăn nhiều xơ. Ông cũng thấy rằng những người nào trong bộ lạc ăn uống theo chế độ của dân da trắng (đường, thức ăn bị tinh lọc, mất chất xơ...) đều bị bệnh tim và tim mạch. Người dân nào ăn uống theo lối cổ truyền thì vẫn tráng kiện. 4. Tác dụng của chất cholesterol và chất xơ đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Họ kết luận: Thực phẩm chứa nhiều cholesterol và có ít chất xơ là căn nguyên quan trọng nhất gây ra bệnh tim và tim mạch. Khám phá mới này đã được in thành cuốn sách “Các mục tiêu dinh dưỡng của nước Mỹ ”, do Uỷ ban Thượng viện chuyên trách về dinh dưỡng soạn thảo, đứng đầu là Thượng nghị sĩ McGovern – tháng Giêng, 1977). Về sau, khuyến nghị trong sách đã phải sửa đổi do áp lực của các kỹ nghệ gia sản xuất thịt, sữa và đường. 5. Hiện nay cách ăn uống dành cho bệnh tim được phổ biến nhất là chế độ ăn kiêng của Pritikin: không muối, không đường, ít protein và chất béo (10% thực phẩm gốc động vật) và không dùng thêm chất dầu, do đã có sẵn trong ngũ cốc lứt, rau củ và trái cây. Lối ăn uống này rất giống với ăn uống của phương pháp Thực Dưỡng và rất thích hợp cho mọi người. Nhưng vì không am tường nguyên lý Âm Dương nên muối bị cấm dùng còn trái cây thì lại được khuyên dùng. Trái cây, nếu dùng nhiều, sẽ làm cho một số người bị âm thịnh và sức khoẻ bị mất quân bình. Những sự thay đổi về chế độ ăn là nguyên do chính khiến cho tỷ lệ tử vong vì bệnh tim giảm trong thời gian từ năm 1960-1977. Tuy vậy sức khỏe người dân Mỹ vẫn không được cải thiện vì trong thời gian này (1960-1977), tỷ lệ chết về ung thư lại tăng 16%. Rõ ràng là số người chết vì ung thư đã thế mạng cho số người chết vì tim mạch và chính quyền đã cải cách lối ăn uống cho người bệnh tim, chứ không phải cho người mắc bệnh ung thư. Giờ đây chính phủ lại tìm phương cách ăn uống ngừa và trị ung thư. Tại sao số bệnh nhân về tim và tim mạch giảm đi trong khi số bệnh nhân ung thư lại tăng? Bệnh tim đã giảm vì dân chúng dùng ít chất béo và dùng nhiều chất xơ hơn. Ung thư hoành hành vì lượng đường và lượng hóa chất tiêu thụ đã tăng vọt. Nhưng nguyên do lớn nhất là muối bị khai trừ. Các chuyên viên dinh dưỡng và y khoa sợ muối, tất cả đều chống đối muối. Vì thực phẩm gốc động vật và thực phẩm chế biến đã chứa nhiều muối nên các vị này vin cớ đó để khuyên bệnh nhân đừng dùng muối để nêm khi nấu ăn và muối gia vị trên bàn ăn. Nhưng ta nên nhớ muối là món tạo ra chất kiềm mạnh nhất. Thiếu chất này cơ thể thiếu sức đề kháng, sức miễn nhiễm và không ngăn chặn nổi sự phát triển của tế bào ung thư. Muối có nhiều dương tính nên cản trở sự phát triển của các tế bào u ác mang âm tính. Những người ăn chay dùng thực phẩm thảo mộc và những người không dùng thực phẩm chế biến, nếu không dùng muối để nêm khi nấu ăn thì không đủ lượng Na để duy trì môi trường kiềm trong thể dịch, nói cách khác là đã tạo ra sự mất quân bình giữa kali và natri (K/Na) trong dung dịch ở phần liên bào hay phần nội vi tế bào. Thiếu muối, ung thư không thể bị kiềm chế. Nhưng muối tinh chế cũng không tốt. Ta nên nêm thức ăn bằng muối thiên nhiên khi nấu nướng để chất natri phối hợp dần với chất bột, chất đạm hay chất béo mà không cản trở hoạt động của tim. Ngược với muối dùng để nấu ăn, muối ở bàn ăn (muối tinh) làm thay đổi hàm lượng Na trong máu quá nhanh gây tác hại cho nhịp tim dễ đưa đến bệnh tim. Khi dùng cốc loại, rau trái tươi không nấu với muối thì bữa ăn thiếu hẳn natri. Vậy thì thế quân bình (tỉ lệ) K/Na trong cơ thể cũng bị chao đảo, bệnh tật lại sinh ra. Vậy là dân Mỹ giảm lượng muối để ngừa bệnh tim mà không cứu xét tường tận cách chọn thức ăn. Nếu thực phẩm động vật hay thực phẩm đã được chế biến sẵn thì muối không cần thiết, nhưng khi dùng thực phẩm thảo mộc tươi hoặc không dùng thực phẩm gốc động vật thì muối lại cần thiết. Sự thay đổi lượng Natri và Kali trong đậu đỗ Thực phẩm (100g) Na (mg) K (mg) Đậu tươi 0, 9 380 Đậu đông lạnh 100, 0 160 Đậu đóng hộp 230, 0 180 Khi nấu ăn theo phương pháp Thực Dưỡng, misô và tương được sử dụng làm gia vị thay thế muối. Hai loại này chứa nhiều natri, ngoài ra còn có kali và chất đạm, như vậy chúng không chỉ cung cấp muối mà còn có axit amin (đặc biệt là vitamin B12), chất trở thành quan trọng khi ta không dùng thực phẩm động vật. Hơn nữa, misô và tương còn giầu chất kiềm. Vì vậy sử dụng chúng tốt hơn muối. Y học hiện đại biết nguyên nhân của bệnh tim nhưng chưa rõ nguyên nhân của ung thư, mặc dù theo thống kê, ăn uống hàng ngày có thể là nguyên nhân chính. Theo Cẩm nang của Hiệp hội Ung thư Mỹ năm 1980, 58,04% trường hợp chết liên quan đến thực phẩm hàng ngày, bao gồm cả bệnh tim, đột quỵ, đái đường, xơ gan, viêm thận, xơ cứng động mạch và ung thư vú, ung thư ruột kết. Mặc dù họ thừa nhận nguyên nhân ung thư vú và ung thư ruột là do sự tiêu thụ nhiều chất béo, họ vẫn không lưu ý, cân nhắc rằng ăn uống hàng ngày là nguyên nhân của các loại ung thư khác. Ví dụ, kẻ giết người số một là ung thư phổi. Theo các chuyên gia về ung thư, hút thuốc là nguyên nhân của ung thư phổi. ở Mỹ, hàng năm có 100.000 người chết vì ung thư phổi, trong số đó có 80% nghiện thuốc lá. Hiệp hội Ung thư Mỹ vin vào cớ đó đế tuyên bố là hút thuốc gây ra ung thư phổi. Tuy nhiên, 80% đàn ông Nhật hút thuốc, nhưng tỷ lệ chết do ung thư phổi lại thấp thứ hai trên thế giới. Vậy nếu hút thuốc lá là nguyên nhân của ung thư phổi thì lẽ ra phải ngược lại. Theo tôi, thực phẩm và các chất gây ung thư trong ăn uống hàng ngày là tác nhân của ung thư phổi và hút thuốc là nguồn kích hoạt (tác nhân là một chất hay một lực tác động làm thay đổi gen trong các tế bào, còn nguồn kích hoạt làm tế bào ác tính phát triển). Do đó, nếu ăn uống đúng, người ta sẽ không thể bị bệnh ung thư phổi. Do không hiểu biết nguyên nhân của ung thư, y khoa hiện đại có 3 cách điều trị cho bệnh ung thư. Tất cả đều tìm cách xoay sở để phá huỷ hay loại trừ tế bào ung thư: phẫu thuật, xạ trị và truyền hóa chất. Theo báo cáo chính thức, những phương cách điều trị này được Hiệp hội Y khoa Mỹ phê chuẩn. Việc “chữa trị” này có nghĩa là bệnh nhân sống được 5 năm sau khi tế bào ung thư được loại trừ. Nói cách khác, người bệnh không cần trở nên khoẻ mạnh (hay ít ra là hạnh phúc), mà việc điều trị chỉ loại trừ tế bào ung thư. Thông thường, ung thư xuất hiện trở lại, sớm hay muộn. Những cách điều trị này chỉ có hiệu quả trong 1/3 các trường hợp ung thư và chúng còn để lại hậu quả xấu. Nhiều người không thích cách chữa trị này. Họ thích cách điều trị không chính thống hơn, ví dụ như họ sẵn sàng điều trị ở các phòng khám ở ngoài nước Mỹ. II Theo tôi, tất cả cách chữa trị ung thư - chính thống hay không chính thống, phương pháp Hoxsey, Gerson, Krebiozen, Interferon, Laetrile và Thymosin - đều là phương pháp đối chứng trị liệu (chữa trên bệnh mà không chữa từ nguyên nhân). Nếu họ có thành công đi nữa thì đó cũng không phải cách chữa trị thật sự, bởi vì họ không chữa căn nguyên của ung thư. Thực tế, khoa học không biết nguyên nhân của ung thư. Đâu là nguyên nhân của ung thư? Đâu là nhân tố làm thay đổi DNA và RNA? Hiệp hội Ung thư Mỹ dự đoán rằng 58,04% trường hợp chết vào năm 1980 có liên quan đến ăn uống. Theo họ, ung thư vú và ruột liên quan đến ăn uống hàng ngày. Tổ chức ACS không cho rằng chế độ ăn uống là nguyên nhân của ung thư phổi; thay vì đó, họ tuyên bố hút thuốc lá là nguyên nhân của ung thư phổi. Điều này không đúng với trường hợp ở Nhật. Số người chết vì ung thư ở Nhật phần lớn là do ung thư dạ dày. Tại sao đàn ông Nhật không chết vì ung thư phổi? ở Mỹ, 100.000 người chết hàng năm là kết quả của ung thư phổi và 80% số này là người hút thuốc. Do vậy, tổ chức ACS tuyên bố thuốc lá là nguyên nhân của ung thư phổi. Vậy thì đâu là nguyên nhân cho 20% còn lại, những người không hút thuốc mà bị ung thư phổi, như đàn ông Nhật? Nguyên do gây ung thư được chứng minh qua số người Nhật di dân sang Mỹ. Tôi là một người trong số đó. Số tử vong vì ung thư bao tử ở Nhật được xếp hạng thứ nhì trên thế giới và dân Nhật lại ít bị ung thư vú và ruột già. Còn tại Mỹ, số bệnh nhân ung thư ruột già rất cao và ung thư dạ dày ở mức độ thấp. Những người Nhật khi di cư qua Hawaii thích ăn gà, bò, pho mát... hơn là cá, là món ăn chứa ít chất béo. Họ cũng thường dùng đường qua các loại nước giải khát, thay vì dùng đường qua các món nấu nướng. Càng sống lâu trên nước Mỹ họ càng dùng nhiều thức ăn Mỹ nhiều hơn nên có nguy cơ cao mắc ung thư vú và ruột, là những căn bệnh phổ biến tại đây. Bác sĩ Gio Gori, phó giám đốc viện ung thư quốc gia có thông báo cho ủy ban Thượng viện vào tháng 7,1976: Hẳn có liên hệ mật thiết giữa chất béo trong các món ăn với bệnh ung thư ruột già và ung thư vú. Lượng chất béo tiêu dùng càng tăng thì nguy cơ bị ung thư ruột già và ung thư vú cũng tăng cao theo biểu đồ tuyến tính. Chúng tôi thấy rằng ung thư ruột già có liên quan chặt chẽ với thịt trong các bữa ăn, dù chúng tôi chưa rõ là đạm hay chất béo chứa trong thịt là tác nhân. Theo các bác sĩ Nhật - K. Chishima và K. Morishta - các tế bào cơ thể được biến đổi từ tế bào máu (hồng huyết cầu). Vậy thì nguyên nhân của ung thư là sự thay đổi ác tính từ máu sang tế bào. Theo Ohsawa và Ohmori, là các bậc trưởng thượng của phương pháp Thực Dưỡng, thì ung thư sinh ra do dùng quá nhiều đường và thực phẩm gốc động vật như phó mát, cá, thịt và trứng; và chính các thực phẩm ấy làm suy thoái phẩm chất của máu, từ đó ung thư phát sinh. III Trong cuốn Trận chiến vĩ đại nhất (The Greatest Battle) do nhà xuất bản Random phát hành năm 1976, trang 41, bác sĩ Ronald J. Glasser trình bày rõ ràng cách phát triển của tế bào ung thư: Dựa trên quan điểm sinh vật học mà tìm hiểu thì các protein trong nhân tế bào bị các chất gây ung thư làm tổn thương. Cội gốc của các protein này được bảo toàn hàng tỷ năm trong các nhân tế bào. Qua mười năm nghiên cứu công phu, chúng tôi thấy rằng dù cho các chất gây ung thư là hóa chất hay có công năng vật lý, dù các sắc chất của chúng có biến đổi thế nào, các thuốc nhuộm benzopyrene hay aniline, chất amian hay tia X, thì chúng vẫn giữ nguyên đặc tính căn bản: chúng tác hại đến vật chất di truyền của tế bào, khi nhập vào trong tế bào chúng đi ngay vào nhân và phá huỷ các axit nucleic. Với liều lượng cao, các chất gây ung thư tiêu diệt tế bào, chúng là thuốc độc của tế bào. Với liều lượng thấp, chúng không tiêu huỷ tế bào mà làm tế bào biến đổi và sự đột biến gen do chất gây ung thư là nguyên nhân của ung thư. Theo bác sĩ Glasser, chất gây ung thư, mà đối tượng là các tế bào bình thường, được gọi là chất khai mở và chất kích thích - nguyên nhân của việc chuyển hóa tế bào thành u ác, được gọi là chất thúc đẩy. Kết luận của bác sĩ về chất khai mở và chất thúc đẩy có ý nghĩa rất quan trọng: “Như vậy một khi tế bào bị chất gây ung thư đe dọa, nó sẽ trở thành u tiền ác tính và sẽ không bao giờ quay trở lại trạng thái bình thường, sẽ luôn là đối tượng tiềm năng của chất kích thích - không phụ thuộc vào thời gian dài hay ngắn trong tương lai, tức là không phụ thuộc vào thời gian kể từ tiếp xúc lần đầu tiên của tế bào với chất gây ung thư để chuyển hoá từ tiền u ác thành u ác.” Dường như suy nghĩ của bác sĩ Glasser về bệnh ung thư đã hoàn toàn đúng, nhưng ông đã không giải thích rõ chất khai mở và chất kích thích là những chất nào. Theo tôi, chất khai mở là chất gây ung thư (chất hóa học, bức xạ, chất amian...) còn chất kích thích là dohút thuốc; và ăn các thực phẩm chứa nhiều axit như đường; thực phẩm nhiều chất béo như thịt, cá, trứng, phomát. Dẫn đến môi trường axít trong dịch thể. Theo sinh lý học, môi trường dịch thể (chất lỏng ở giữa các nội bào) có tính kiềm nhẹ. Nếu chúng trở thành axit, tế bào sẽ bị chết. Nếu dịch thể tế bào não tới 6.9 pH, chúng ta bị hôn mê. Nếu chúng ta duy trì điều kiện axit nhẹ nhưng không đủ độ axit để giết tế bào thì dịch thể axit này sẽ xúc tác sự phát triển của tế bào ác tính hay sản sinh các tế bào ác tính. Nói cách khác, dịch thể axit nội bào sẽ là điều kiện để tế bào ung thư hình thành và phát triển. Vậy đâu là nguyên nhân để xác định tình trạng các chất dịch trong cơ thể có tính axít? Tất cả các thực phẩm có thể phân chia thành 2 nhóm: nhóm axit và nhóm kiềm. ăn quá nhiều thực phẩm tạo axit sẽ là nguyên nhân làm axit hóa dịch thể. Giữa 2 loại này, đậu đỗ và ngũ cốc là thực phẩm axit nhẹ. Thực phẩm động vật và đường là thực phẩm axit nặng. Do đó, ăn chay phòng chống được ung thư. (Tìm đọc “Axít và kiềm”, NXB Văn hoá Dân tộc, 2004 - ND) Thực phẩm tạo axit (Theo thứ tự từ âm đến dương, từ trên xuống dưới cũng như đối với từng loại) Phần lớn các chất hóa học, thuốc ngủ, ma tuý, đường, kẹo, nước ngọt, dấm, sacarin, rượu vôtca, một số rượu khác, rượu uýtky, rượu sakê, bia. Dầu ngô, dầu ô liu, dầu vừng, bơ mè, bơ vừng. Đào lộn hột, lạc, hạnh nhân, hạt dẻ. Tương đậu nành, đậu xanh, đậu phụ, đậu trắng, đậu ngựa, đậu bầu dục, đậu đen, đậu nhỏ, đậu đỏ. Mì ống, spaghetti. Bắp ngô, yến mạch, lúa mạch, lúa mạch đen, lúa mì, lúa gạo, kiều mạch. Tôm cua, sò hến, lươn, cá chép, cá thịt trắng, phó mát, chim, thịt đỏ, cá ngừ, cá hồi, trứng. Thực phẩm tạo kiềm (Theo thứ tự từ âm đến dương, từ trên xuống dưới cũng như đối với từng loại) Rượu tự nhiên, sakê tự nhiên, côla, cacao, nước hoa quả, cà phê, trà (xoăn), nước khoáng, nước sôđa, nước giếng. Mật ong, mù tạc, gừng, hạt tiêu, bột cà-ri, quế. Hoa quả nhiệt đới, quả chà là, quả sung, quả vả, quả cam, quả nho, nho khô, chuối, táo, quả anh đào, quả dâu tây. Khoai tây, cà, cà chua, shiitake (nấm Đông Cô), khoai sọ, dưa chuột, khoai lang, nấm, rau bina, măng tây, bí đỏ, súp lơ (bông cải), cần tây, bắp cải, bí, bí ngô, hành, củ cải, cải, củ cải (daikon), nori, hijiki, cà rốt. Hạt bí, hạt bí ngô, hạt hướng dương, hạt vừng. Wakame, kombu (phổ tai), hạt kê, củ sen, củ burdock (ngưu báng), rễ bồ công anh, jinenjo. Trà bancha, trà sắn dây (cát căn), trà gạo lứt, trà bồ công anh, trà mu, trà gừng. Muối vừng, nước xốt đậu nành, mi-sô, ô mai, muối. Theo triết lý phương Đông, mọi thứ đều có thể chia ra thành 2 loại: âm và dương. Âm là sự bành trướng (đi lên, lạnh, trọng lượng nhẹ, về phía tím hay lạnh của quang phổ), trong khi dương thì đối lập lại (đi xuống, nóng, về phía đỏ và ấm của quang phổ...). Thực phẩm axit thì trội âm, như chất béo, dầu, đường là nguyên nhân của ung thư ở phần trên của cơ thể, bởi vì âm đi lên. Ngược lại, thực phẩm axit trội dương hơn như sản phẩm động vật sẽ sinh ra ung thư ở phần dưới của cơ thể, bởi vì dương có xu hướng đi xuống. Thực phẩm giữa hai loại này là đậu đỗ và ngũ cốc (gạo trắng, bột mỳ trắng, tôm, cua, sò, hến...) sinh ra ung thư ở phần giữa cơ thể. Mặc dù đậu đỗ và ngũ cốc loại là thực phẩm chứa axit, nhưng chúng lại cần thiết trong việc ăn uống để giữ gìn sức khoẻ. Chúng là nguồn gốc của hydratcacbon, protein, chất béo, chất khoáng, các vitamin và enzim. ở Trung Quốc và Nhật Bản, người ta xem chúng là nguồn thực phẩm chính từ hàng ngàn năm nay. Dù sao, lúa gạo và đậu đỗ là loại thực phẩm tạo axit, do đó ta cũng cần cả thực phẩm tạo kiềm để đạt được sức khoẻ quân bình. Để kiềm hóa máu và dịch thể, một người cần phải ăn thực phẩm kiềm tính. Quan trọng là phải lựa chọn được thực phẩm kiềm tính âm cho người thặng dương hay cho bệnh nhân ung thư thuộc loại dương (như ung thư ruột). Mặt đỏ là kết quả của ăn uống thặng dương với quá nhiều thực phẩm động vật và natri (có khi lại do rượu). Những người này sẽ cần cân bằng với rau quả âm. Người nhợt nhạt, xanh xám (hay ung thư thuộc âm tính) cần thực phẩm dương giàu kali như cà rốt, củ ngưu báng, củ sen, mi-sô, trà nhân sâm, trà mu. Hoa quả là thực phẩm giàu kali. Tuy nhiên, dư thừa đường hoa quả (fruco) sẽ trở thành chất béo, nguyên nhân của tắc động mạch. Do đó, hoa quả không nên dùng nhiều. Mật ong và xirô giàu kali. Chúng giàu disaccharide như đường tinh chế, nên không nên dùng nhiều, đặc biệt với bệnh nhân ung thư. Cà phê là loại kali nhưng rất âm. Bệnh nhân ung thư âm tính nên tránh dùng. Những thực phẩm âm làm tăng sự lan rộng của ung thư di căn. IV Tháng Tư năm 1981, tạp chí Khoa học có đăng bài “Tại sao các tế bào ung thư chạy tán loạn?” của tác giả Ben Patrusky. Bài viết này đã đặt ra các vấn đề mà hầu hết mọi người ngày nay đều quan tâm. Mỗi một nhà ung thư học cũng đang đi tìm câu trả lời để cứu chữa cho hàng triệu bệnh nhân hoặc để có được danh tiếng cho đời. Theo tôi, vấn đề thật đơn giản nhưng không được các nhà khoa học giải đáp vì họ đang đi tìm câu trả lời trong khi không thừa nhận thực tế đơn giản là tất cả các tế bào, dù lành tính hay ác tính, đều hấp thụ thực phẩm chúng ta ăn vào. Bí mật của căn bệnh ung thư nằm ở các thực phẩm này. Do vậy tôi cố gắng trả lời các câu hỏi do tác giả đặt ra với hy vọng là các suy nghĩ của tôi sẽ thu hút được sự chú ý của các nhà khoa học để điều tra các thực phẩm mà tế bào hấp thụ. Tại sao tế bào không phát triển một cách vô hạn? Tế bào trong cơ thể chúng ta bao gồm chất đạm, axít amin, đường, mỡ, khoáng chất, enzym, vitamin... Một số chất hoạt động bành trướng (âm) và một số chất lại hoạt động co cụm (dương). Nếu các nhân tố có tính bành trướng chiếm ưu thế, tế bào sẽ phát triển lớn hơn. Ngược lại các nhân tố có tính co cụm chiếm ưu thế, tế bào sẽ thu nhỏ lại. Cần lưu ý là tế bào lớn lên hoặc nhỏ lại phụ thuộc vào tỷ lệ giữa các chất có tính bành trướng (K, P, S, Cl, O và N) và các chất có tính co cụm (Na, Mg và H). Tuy nhiên, tế bào không phát triển một cách vô hạn vì phụ thuộc vào thực phẩm cung cấp. Chất dinh dưỡng đi vào tế bào bằng cách thẩm thấu qua màng của nó. Muốn cung cấp đủ chất dinh dưỡng thì bề mặt của màng phải đủ lớn để các chất đó thẩm thấu và đủ để duy trì hoạt động của mỗi tế bào. Nếu r là bán kính của một tế bào, với giả thiết tế bào đó là hình cầu, A là diện tích bề mặt của tế bào, và V là thể tích tế bào thì ta có mối quan hệ sau giữa r, A và V: V = 4/3 r3 A = 4 r2 Các đẳng thức này cho thấy bán kính của tế bào liên quan tới thể tích của nó theo hàm mũ 3 (lập phương) và liên quan tới diện tích bề mặt thì theo hàm mũ 2 (bình phương). Nói cách khác, khi bán kính tăng lên thì thể tích phát triển nhanh hơn diện tích bề mặt. Khi tế bào đạt tới kích thước nhất định (điểm cân bằng), thì các chất dinh dưỡng qua bề mặt không đủ nuôi sống tế bào và tế bào sẽ dừng phát triển. Đây là cơ chế kiểm soát tự động của tế bào lành tính. Tại sao tế bào phân chia? Khi diện tích bề mặt và thể tích tế bào đạt tới điểm cân bằng thì tế bào dừng phát triển. Tuy nhiên, nếu các nhân tố có tính bành trướng chiếm ưu thế so với các nhân tố có tính co cụm trong thực phẩm cung cấp thì tế bào sẽ hấp thụ chúng ngay cả sau khi dừng phát triển, lực bành trướng hoặc co cụm sẽ làm phân chia tế bào, tạo thành tế bào con. Khi tế bào phân chia, diện tích bề mặt lớn hơn so với thể tích, do vậy tế bào lại phát triển. Khi đạt tới điểm cân bằng, nếu nhân tố bành trướng tiếp tục chiếm ưu thế thì tế bào sẽ lại phân chia. Tại sao tế bào ác tính lại phát triển lộn xộn? Tế bào ác tính cần thức ăn để sống và phát triển. Tuy nhiên chất dinh dưỡng chúng hấp thụ khác với tế bào bình thường. Tế bào ác tính duy trì đời sống bằng các chất thải của tế bào bình thường. Hơn nữa tế bào ác tính không cần ôxy. Đây chính là lý do vì sao các tế bào ung thư hầu như không bị diệt hết (tham khảo bài viết “Các tế bào không thể chết” đăng trên tạp chí Khoa học, tháng Tư 1981). Kích thước của tế bào ác tính cũng bị giới hạn bởi tỷ lệ giữa diện tích bề mặt A và thể tích V. Nhưng nếu tế bào ác tính nhận được các chất dinh dưỡng có tính axít (bành trướng), thì chúng sẽ phát triển và phân chia nhanh hơn tế bào bình thường. Nguyên nhân gì làm cho tế bào bình thường chuyển thành tế bào ác tính? Tôi tán thành ý kiến của bác sĩ Glasser cho rằng chất gây ung thư là chất khai mở của bệnh ung thư. Tuy nhiên bệnh ung thư không hoành hành ngay khi các chất gây ung thư hoạt động. Phải có một chất thúc đẩy làm phát triển tế bào ung thư. Có hai luận thuyết về việc hình thành bệnh ung thư, chất khai mở và chất thúc đẩy, giải thích cơ chế gây bệnh ung thư khá rõ ràng. Theo tôi, môi trường axít của dịch bào là chất thúc đẩy mạnh nhất. Nguyên nhân tạo ra môi trường axít là do hô hấp kém và tiêu thụ quá nhiều thức ăn tạo axít so với thức ăn tạo kiềm. -------------------- Mini chan ga ichiban
![]() ..::Mini::.. |
|
|
![]()
Bài viết
#23
|
|
![]() Rinkitori Tojimomi ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 125 Gia nhập vào: 7-February 07 Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ Thành viên thứ.: 3 ![]() |
22. Chuyến du thuyết hè năm 1981
Tháng 10 năm 1981 Các gia đình Thực Dưỡng Tôi cảm thấy vui mừng được gặp lại các bạn cũ , nhất là thấy thân quyến của họ được khoẻ mạnh và hạnh phúc hơn xưa. Đầu tiên chúng tôi ghé lại thành phố Salt Lake và cảm nhận được niềm vui sướng này, nhưng có vài cặp vợ chồng gặp khó khăn. Bà A. quá dương nên dùng ít muối để nấu ăn, do vậy nên chồng con quá âm: chồng không còn tha thiết với tình dục, con cái thì hay càu nhàu. Vì không còn thích chăn gối với vợ, nên chồng tìm việc làm thêm ngoài giờ, bỏ vợ phòng không gối chiếc với thời gian dài, và khủng hoảng nhất định phải xảy ra. ở vài trung tâm Thực Dưỡng, có nhiều người sợ muối. Họ còn chưa thành thạo về nấu ăn. Hãy nấu sao cho thức ăn có vị ngọt khi đã nêm muối, nước tương hay misô. Thiếu các phụ liệu này mùi vị sẽ không thơm ngon và thức ăn sẽ thiếu năng lượng. Khi bước vào ngưỡng cửa Thực Dưỡng, người ta hay lạm dụng muối, bây giờ thì phản ứng ngược lại! Đừng phản ứng mà hãy dùng trí phán xét cho chín chắn. Một cựu môn sinh của tôi đã ly dị vợ cũ mấy năm. Nay cậu ấy mời tôi thuyết giảng và dạy cách nấu ăn. Tôi cảm thấy vui sướng vì cậu có được người vợ đẹp, dịu dàng, hiện sống trong một ngôi nhà xinh xắn. Cậu nói là cậu không tái phạm lỗi lầm. Lỗi lầm gì vậy? Tôi nghĩ là cậu đã trông đợi nhiều điều lý tưởng nơi cô vợ trước. Tuy nhiên cậu lại tái phạm lỗi cũ: đòi hỏi quá nhiều! Theo vợ cậu nói thì cậu thường bảo là cô ấy ăn quá nhiều các chế phẩm từ sữa. Nghe mấy lời đó vài lần đầu thì còn được, nhưng nghe mãi thì vợ mới cưới chịu không nổi! Làm sao cô ta có thể thay đổi thói quen trong một thời gian ngắn! Tình vợ chồng sẽ phải nát tan thôi! Quan niệm này của cánh đàn ông là do tính quá thiên về lý tưởng đến độ cực đoan, cuồng tín. Vì pháp Thực Dưỡng dễ làm cho người áp dụng có cái nhìn lý tưởng về cuộc đời, cho nên nó dễ tạo cho họ một thái độ cuồng tín và dĩ nhiên nó sẽ phải gặp rắc rối. Ông B. cũng là người sống với lý tưởng, cuồng tín cho nên không sống êm thấm đối với bà vợ trước. Ông ta kết bạn với cô gái khác, rồi cũng bẽ bàng do óc cực đoan, không quảng đại. Tại trại hè Mid - Atlantic có đôi vợ chồng đến cám ơn tôi vì lời khuyên của tôi có ích cho hạnh phúc của họ. Cô vợ tâm sự với tôi là có một đêm cô gặp chuyện rắc rối khổ tâm với chồng, nhưng nhờ giấc mơ nhắc lại lời khuyên của tôi nên sau đó gia đình lại êm ấm. Đây là niềm vui bất ngờ trong chuyến đi này. ở Spokane tiểu bang Washington tôi cũng nhận được niềm hân hoan tương tự. Một đôi vợ chồng sống với nhau có ba đứa con. Đêm nọ họ đến tham vấn tôi và bảo rằng họ có tham dự trại hè French Meadows vào 1977. Cô vợ nhớ lại là tôi đã khuyên cô: “Cô nên lập gia đình với cậu ấy”. Chẳng những cô đã thực hiện lời khuyên, mà còn sinh được 3 đứa con. Mặc dù sống hạnh phúc, nhưng họ vẫn gặp khó khăn. Cô quá bận chăm sóc những đứa con khiến cho chồng ganh tỵ. Cornellia, vợ tôi khuyên cô nên vui chơi dã ngoại với chồng mỗi tuần một lần. Họ nhận ra thiếu sót và lại hòa hợp với nhau. Nông dân Thực Dưỡng ở Mỹ Trên quãng đường sau cùng của chuyến đi, tôi gặp vài nông dân theo phương pháp Thực Dưỡng. Họ không dùng hóa chất làm phân bón và không sử dụng máy kéo lớn. Các vị nông dân đó là ông bà Tom Mc Donald đang sống ở Trumansbarg thuộc Nữu Ước, dân số độ 1.000 người, gần Ithaca. Họ mua 30 mẫu đất cách đây 60 năm và đã thành công trong việc trồng tỉa. Vừa nghỉ ngơi sau chuyến đi, thì Shellev đưa chúng tôi đến đó: họ trồng cải xoắn, cải bắp, hành scallion, củ hành, cà rốt và lúa mạch (chỉ có một cốc loại). Sản phẩm chính là dưa leo và cải bắp. Đây là hai thứ dùng ngâm dấm và bán ở thị trường dưới nhãn hiệu rất nổi tiếng: Samurai Pickles. Mùa đông quá khắc nghiệt nên không ai trồng trọt gì được. Do đó ngâm dấm hoa quả là việc làm rất hay. Ngày hôm sau trời nhiều mây và lạnh. Trên 40 người đến dự lớp nấu ăn của vợ tôi, Cornellia và nghe tôi thuyết trình. Một thị trấn nhỏ như vậy mà nhiều người đến họp mặt là một điều kỳ thú. Đó là nhờ ảnh hưởng của Tom, Shelley và chị của bà là Kay. Gia đình của họ sống hạnh phúc với 3 đứa con. Tôi ước mong gia đình của họ được vững bền mãi. Miền Đông và miền Tây nước Mỹ Thật là ẩm ướt khi chúng tôi đến nhà ở New Jersey từ Washington. Tôi thắc mắc tại sao miền Đông ẩm ướt còn miền Tây (trừ vài nơi ở Oregon và Washington) lại khô ráo? Tôi thấy lý do như sau: miền Đông ẩm ướt nên cỏ cây mọc nhiều hơn, miền Tây thì giống sa mạc. Tại vì sao? Cây cỏ ở miền Đông rậm rạp hơn, ẩm hơn, lâu đời hơn, đã qua thời kỳ băng giá và có mưa nhiều. Trái lại miền Tây đất mới hơn, có nhiều sỏi đá hơn như: ở Black Hills và Badlan thuộc tiểu bang South Dakota, ở Big Horn Nation Forest và Shell Canyon thuộc tiểu bang Wyoming, Zion National Forest thuộc tiểu bang Utah và Gra Canyon ở tiểu bang Arizona. Sai biệt về môi sinh tạo ra sai biệt về sinh hoạt và nếp sống. Xã hội miền Đông đã khởi sự bằng nông nghiệp, kế đó là kỹ nghệ và thương mại. Xã hội miền Tây khởi đầu bằng nghề nông cá thể rồi đến khai thác quặng mỏ và cứ thế cho đến khi có người di dân đến thì nông nghiệp mới phát triển mạnh. ở miền Đông dân chúng sống bảo thủ theo nghi thức. Các môn sinh Thực Dưỡng tham dự trại hè với sơmi trắng, cà vạt, mang giày. Trại hè miền Tây chẳng có ai mặc áo sơ mi trắng, cà vạt cả. ở miền Đông dân chúng quá bảo thủ nên phương pháp Thực Dưỡng bị xem là quá cấp tiến. Ngược lại dân miền Tây cho phương pháp Thực Dưỡng là quá chậm tiến, họ quá cấp tiến. Lái ô tô từ Tây sang Đông rồi quay về, tôi thấy sự khác biệt giữa hai miền: rừng rậm và đất đá, kỹ nghệ và quặng mỏ, thương mại và nông nghiệp, bảo thủ và cấp tiến - Âm và Dương. -------------------- Mini chan ga ichiban
![]() ..::Mini::.. |
|
|
![]()
Bài viết
#24
|
|
![]() Rinkitori Tojimomi ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 125 Gia nhập vào: 7-February 07 Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ Thành viên thứ.: 3 ![]() |
23. nhỏ là mạnh
Hội chứng ruồi med Tháng 11 năm 1981 Vào đầu tháng Bảy, một gia đình từ vùng San Jose chuyển tới Trung tâm Vega của chúng tôi bởi thống đốc bang California Jerry Brown đã đồng ý miễn cưỡng cho phép xịt toàn vùng bằng thuốc diệt bọ malathion vào ngày mười tháng Bảy, với hy vọng dập được nạn ruồi gốc Âu. Vì biết tôi từ lâu và có đứa con mới sinh mới được một tuần tuổi, nên bà mẹ trẻ này xin tôi cho cô cùng ba đứa con của cô được ở tại Vega trong thời gian đó để tránh dịp phun thuốc, vì sợ đứa bé mới sinh sẽ bị ốm. Tôi đã đồng ý và họ đã ở hai tháng. Chúng tôi đã tận hưởng cái gia đình tăng người đột ngột của mình. Tại sao phải phun thuốc xịt malathion? Tháng Sáu năm 1980 – có thể do một khách du lịch đã mang lậu một loại trái cây nhiệt đới đã qua mắt thanh tra nông nghiệp ở Hawai - ruồi lạ từ trái cây đó đầu tiên xuất hiện ở Santa Clara cách khoảng 50 dặm phía Nam San Francisco. Tới tháng Giêng, côn trùng này đã lan tràn trong khoảng 500 dặm vuông quanh tỉnh. Thống đốc cố gắng kiểm soát nạn ruồi và quyết định tiêu diệt trên diện rộng vào ngày 6-1. Hàng nghìn nhân viên cùng những người tình nguyện đã bắt đầu chiến dịch và tới những khu vườn bị nhiễm, mang theo chổi và túi nhựa, đi thu lượm bất kỳ loại quả nào từ bơ đến cam. Sau đó, họ phun thuốc diệt côn trùng từ mặt đất. Thêm nữa, chính quyền ở California còn nhập khẩu hàng triệu ruồi med từ Peru rồi khử giống nó bằng phóng xạ, sau đó thả ra cho đi giao phối với ruồi cái để chúng chỉ đẻ trứng không được thụ tinh. Tuy nhiên khoảng 6 tháng sau, người ta thấy rằng nhiều con đực vẫn phối giống được. Nhận ra rằng ruồi med ở California đang bành trướng số lượng và gây hại, Bộ trưởng Nông nghiệp Mỹ John Block cảnh báo sẽ cấm xuất khỏi bang những rau quả trị giá 14 tỉ đôla do California sản xuất. Hai giờ sau lời cảnh báo, ngày 10-7, thống đốc Brown đã cho phép phun malathion trong địa hạt. Kể từ đó ba tháng đã qua, các nhà môi trường học không thể đấu tranh chống việc phun diệt ruồi - vốn có thể đe doạ gây bệnh cho người, mọi người đều biết rằng ruồi med có thể sẽ phá huỷ ngành nông nghiệp hàng tỉ đô la của California nếu không hạ thủ được nạn ruồi này. Do vậy vùng rải thảm malathion vẫn đang tăng. Bây giờ thêm 6 tỉnh bắt đầu phun rải, bao gồm cả vùng trung du Central Valley. Liệu chúng ta có thắng trong cuộc chiến chống ruồi? Với tôi câu trả lời có vẻ là không. Ngày 9-10, bản tin truyền hình tường thuật rằng người ta phát hiện ra khảng 45 trứng ruồi med trên trái cây ở tỉnh Alameda. Ruồi med là gì? Ruồi med là một trong họ nhà ruồi hút trái và là loại đáng sợ nhất. Từ lâu nó là loại hại mùa màng ở châu Phi, úc, Nam Mỹ và trên các đảo thuộc Hawai và Bermuda, phá hoại đào, mơ, lê, cam, quýt và các loại trái cây khác. Tên gọi của nó sai vì ruồi này mới được xâm nhập vào vùng lân cận Địa Trung Hải. Có kích cỡ bằng một hạt gạo, nhỏ hơn ruồi nhà thông thường và với những sọc vàng trên cánh, trông nó đẹp mắt. Tuy nhiên, đối với nông dân và chủ trang trại thì nó là kẻ thù số một. Theo Masanobu Fukuoka, một nhà triết học và nông trại học thiên nhiên người Nhật thì ruồi med là kẻ tấn công đáng sợ nhất cho trái cây bởi một khi trứng nó được đẻ ra (đôi khi tới 500 trứng mỗi lần), ấu trùng liền chui vào quả và khiến thịt quả bị thối rữa, không còn dùng được nữa. Theo tờ tuần báo “Thương mại” số ra ngày 19-1-1981, nó sẽ gây hại 250 loại rau và quả gồm cam, đào, táo, mơ, cà chua, cà tím... Nó xuất hiện ở Florida năm 1956 và bằng cách phun thuốc mạnh khắp vùng nó đã bị dập tắt năm 1957. Nhờ sự phản kháng mạnh chống mọi loại thuốc trừ côn trùng và khả năng tiềm tàng gây hại cho quả, thời đó đã hình thành các điều luật kiểm dịch trên thế giới, để quy định việc nhập khẩu trái cây vào các nước khác. Hiện tại, các lục địa chưa bị ruồi med lan tràn là Bắc Mỹ và châu á. Các lục địa còn lại đều bị. Do vậy, Mỹ cấm nhập trái cây từ châu Âu, Cận Đông, châu Phi, châu úc và Brazil. Nếu Mỹ kiểm soát thất bại ruồi med thì Nhật sẽ sớm bị nhiễm. Nhật nhập trái cây giá trị khoảng một tỉ đô la mỗi năm từ California. Ngay cả biện pháp kiểm dịch cũng không thể chặn ruồi lan phát bởi người thích trái cây nào đó có thể không biết hay các thương gia tham lam sẽ buôn lậu trái cây cùng ruồi vào Nhật. Thế thì ruồi med sẽ lan sang Triều Tiên và Trung Quốc, để hoàn thành việc xâm chiếm toàn cầu. Để chặn ruồi med lây lan, chính quyền bang California đã dùng hai biện pháp. Một là phun thuốc diệt trừ và hai là kiểm dịch. Đó chưa phải là giải pháp tốt nhất, nhưng vì không còn cách nào khác hay hơn. Chúng tôi nhận được một phản ánh từ một người bạn sống trong vùng phun thuốc. Cô ấy thuật cho chúng tôi: “Thái độ đa số ở đây có vẻ không thích với việc phun thuốc, nhưng mà vẫn phải sống trong đó, thích nghi với cuộc sống đó”. Theo cô, nhiều người đang phàn nàn về các chứng bệnh viêm họng, ho và cảm nhưng có xu hướng đổ thừa điều này lên thời tiết, rằng nó đang trở lạnh. Một y tá tại một bệnh viện địa phương nói cô nghĩ rằng bất kỳ lời phàn nàn về sức khoẻ nào đều có thể xuất phát từ việc hít phải thuốc. Điều này ngược lại với thông cáo do Sở Thông tin nêu ra - họ nhấn mạnh rằng chỉ có phản ứng với phân bón hữu cơ mới bị đau đầu và gây buồn nôn. Theo cuốn Đánh giá về những nguy cơ cho sức khoẻ do việc áp dụng phun thuốc malathion toàn vùng, soạn bởi Sở Y tế California, tháng 12-1980, thì mối nguy hại cực tồi tệ là cứ một trên một triệu đứa trẻ có thể phát triển khối u do tiếp xúc với malathion. Điều này có vẻ đúng, nhưng vấn đề là có quá nhiều nguy cơ ung thư trong xã hội hiện tại của chúng ta - tia X, phẩm mầu hoá học, các chất bảo quản thực phẩm, thức ăn tổng hợp, thức ăn hooc môn, ô nhiễm nước và khí,… đến nỗi trong khi nguy cơ của mỗi thứ có thể là một trên một triệu, khi những thứ này được thêm vào thì xác suất một trên một triệu có thể thành ra một trên hàng trăm hay hàng chục. Đây là lý do theo những số liệu mới đây rằng cứ 4 người thì có một nạn nhân bị ung thư. Ngay cả nếu ta không tính những nguy cơ gây ung thư, thì vẫn có những rủi ro khác cho sức khoẻ gây ra bởi việc phun malathion. Một tư tưởng tương tự đã được Rachel Carson diễn tả 20 năm trước trong “Mùa xuân yên lặng” (NXB Houghton Mifilen, 1962): “Vài năm trước, một nhóm các nhà khoa học của Cơ quan Quản lý Dược phẩm đã khám phá ra rằng khi thuốc sâu malathion và một số loại phân lân hữu cơ khác bị áp dụng đồng thời thì một loạt hậu quả độc hại - ước đoán nghiêm trọng gấp 50 lần tính độc của hai thứ đó cộng lại. Nói cách khác, 1/100 của liều gây chết người của mỗi hỗn hợp có thể đủ gây chết khi hai thứ phối hợp lại. Khám phá này dẫn đến việc thử những phối hợp khác. Người ta biết rằng kết hợp thuốc diệt sâu bọ với phân lân hữu cơ có mức nguy hiểm cao, tính độc hại tăng thêm hoặc được tiềm ẩn trong việc phối hợp. Cả hai không nên áp dụng cùng một lúc. Nguy cơ không chỉ đối với người đi phun - tuần này phun loại thuốc trừ sâu này, rồi tuần sau phun một loại phân kia - mà còn đối với người tiêu thụ sản phẩm bị phun. Món nộm xà lách có thể dễ dàng tích một hỗn hợp các loại thuốc trừ sâu - phân lân hữu cơ. Tính độc hại của một loại lân hữu cơ có thể bị tăng thêm do một tác nhân thứ hai vốn không nhất thiết là một loại thuốc sâu. Chẳng hạn, một trong những tác nhân từ đồ nhựa có thể hoạt động còn mạnh hơn loại thuốc sâu khác khiến malathion nguy hiểm hơn lên. Thêm nữa, nó ngăn cản enzym của gan người, khiến việc đào thải chất thuốc trừ sâu độc hại kém đi”. Với tôi, có vẻ rằng malathion kém độc so với các loại thuốc trừ sâu khác dù rằng nó không hoàn toàn an toàn. Tuy nhiên, rắc rối chính không phải là tính độc của nó mà là tính hiệu quả. Phun malathion không tận diệt được ruồi med, nó còn tăng sức đề kháng của chúng lên nữa. Do vậy vài tháng sau khi phun, ruồi thường quay lại. Hầu như trước khi ta tận diệt được ruồi med bằng phun thuốc thì đã giết chết con người nếu không tìm được cách tốt hơn. Cách bảo vệ khác là kiểm dịch, là biện pháp âm hơn phun thuốc trừ sâu, bởi nó cố gắng loại trừ trái cây từ vùng bị nhiễm. Điều này gây ra những vấn đề tài chính và chính trị thay vì những vấn đề sức khoẻ. Trước khi việc phun thuốc vào mùa hè này được bắt đầu, chính phủ Nhật đã ngưng mua trái cây của California từ vùng bị nhiễm vì sợ khả năng bị nhiễm ấu trùng hay trứng ruồi med. Điều này sẽ gây thất thu khoảng gần một tỉ đô la cho California. Vấn đề không dừng ở đây. Các vấn đề chính trị cũng nảy sinh. Một nghị sĩ ở California nói: “Bang California nên tẩy chay đồ Nhật”. Ông ta đã không hiểu nguyên do Nhật ngưng mua trái cây từ California. Hình như ông chẳng muốn hiểu mà thiên về muốn gắng giải quyết vấn đề một cách chính trị. Một giải pháp như vậy sẽ chỉ khiến tình hình tồi tệ thêm. Tháng Chín, ba cán bộ nông nghiệp Nhật Bản được mời tới vùng Santa Clara, họ nêu một khuyến nghị lên chính phủ Nhật rằng nên cho phép nhập trái cây. Vào ngày 10-10, những lứa cam Sunkist đầu tiên đã lại tới Nhật Bản sau khi việc thương mại trái cây từ California được khai thông. Các nông dân California vui mừng nghĩ mình đã giải quyết được ít nhất một vấn đề do ruồi med gây ra. Tuy nhiên, những giải pháp phiến diện như là phun thuốc trừ sâu thì luôn gây những vấn đề khác. Hãng thông tấn UPI Nhật Bản tường thuật vào thứ Bảy ngày 10-10: “Ngày thứ Sáu, các công nhân bến tầu ở Nhật đã từ chối bốc dỡ một tàu hàng chở trái cây California vốn bị xịt thuốc sâu độc hại được tuyên bố gây ung thư ở Mỹ. Chủ tịch Kaneo Hanada của công đoàn thợ thuyền ở Yokohama nói, các công nhân đã dỡ xuống 11 côngtenơ chứa cam và các loại trái khác từ California do tàu Sealand Leberator tải trọng 25 tấn chở tới. Ông tuyên bố: “Nhưng chúng tôi sẽ không mở các kiện hàng hay chuyển chúng khỏi bãi cho đến khi các quan chức y tế chứng nhận rằng trái cây hay các toa hàng của họ không bị nhiễm khí độc etylen dibromid (EDB)”. Chuyến hàng này là những trái cây đầu tiên được khử trùng bằng khí EDB từ khi phát hiện ruồi med hại trái cây ở California. Chính phủ Nhật đã đồng ý với các viên chức nông nghiệp Mỹ vào ngày 8-9 về việc khử trùng bằng EDB đối với các loại cam, chanh, nho, bưởi, bơ được thu hoạch ngoài vùng bị nhiễm ruồi med khi xuất đi Nhật. Nhưng Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ khi tiến hành các thí nghiệm lên động vật đã phát hiện rằng EDB có thể gây ung thư và rối loạn gan. Cục này dự định cấm EDB từ 1983 vì lý do đó. Hanana nói: “Thật không công bằng khi dùng loại thuốc trừ sâu này, vốn đã được phát hiện là nguy hiểm ở Mỹ, phun lên trái cây nhập vào Nhật”. Một tầu hàng 30.000 tấn, chiếc Queen' Way Bridge, theo kế hoạch sẽ cập cảng Kôbê với 86 tấn cam và 17 tấn chanh”. Chẳng ai biết vấn đề sẽ được giải quyết thế nào. Tôi hình dung rằng quan chức Nhật Bản đã đàm phán với các viên chức nông nghiệp Mỹ và đã cấp phép cho tầu trái cây California vốn bị xịt EDB, có lẽ sẽ từ chức do không việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ dân Nhật trước việc nhập khẩu các trái cây không tốt. Vị quan chức đó đã bị thuyết phục trước tuyên bố của các nông dân và khoa học gia Mỹ rằng trái cây California tuyệt đối an toàn cho nông nghiệp Nhật. Nhưng ông ta đã chẳng nghĩ liệu trái cây California có thực an toàn cho người Nhật không. Do vậy, vấn đề là cái nào quan trọng hơn - sức khoẻ của người dân hay thu nhập của nông dân. Thống đốc Brown thì đã chọn xếp sức khỏe của dân lên trước, sau đó mới tới lợi ích của nông dân. Còn quan chức Nhật thì đã xếp cái thứ hai lên hàng đầu - bảo vệ các nông dân Nhật (do Mỹ cấm nhập một số các sản phẩm nông nghiệp khác của Nhật). Tuy nhiên, bây giờ họ đang phải đối mặt một vấn đề lớn: công đoàn phản đối và tẩy chay. Thuốc trừ sâu và kiểm dịch không thể giải quyết vấn đề kép này - tức là liệu sức khoẻ của người dân hay thu nhập của nông dân quan trọng hơn. Từ quan điểm Thực Dưỡng, tôi gợi ý giải pháp sau: Thay đổi các phương pháp trồng trọt sao cho ruồi med hay các côn trùng khác không gây hại nghiêm trọng cho tăng trưởng của mùa vụ mà không phun thuốc trừ sâu. Đưa vào nhiều phân bón, nhất là loại hoá học, khiến cây và trái yếu đi và âm thêm (âm thường biểu hiện mọng hơn, ngọt hơn, to hơn; do vậy nông dẫn cũng như người tiêu thụ thích kiểu này). Hậu quả là, trái cây dễ dàng bị ruồi hay các côn trùng gây hại. Đây là biểu hiện của chọn lọc tự nhiên. Tuy nhiên, nếu trái cây trưởng thành mà không dùng phân bón, thuốc trừ sâu, chỉ làm đất và nhổ cỏ như cách canh tác tự nhiên theo phương pháp của Fukuoka, thì cây cối lớn tự nhiên và rất hợp môi trường. Cây trái sẽ rất dương. Điều này có nghĩa chúng sẽ không dễ bị ruồi chích trái tấn công hay xâm chiếm. Ruồi hại trái không thích những trái dương, chúng thích những loại âm vốn rất mọng nước và ngọt. Theo giáo sư Fukuoka, nếu ta canh tác theo thiên nhiên, ta không cần thuốc trừ sâu. Canh tác theo thiên nhiên là phương pháp lý tưởng cho bất kỳ loại nông nghiệp nào, tuy vậy, nó sẽ không được thực hiện một sớm một chiều. Do vậy ta cần chiến thuật khác. Năm 1977, chính phủ Mỹ xuất bản cuốn “Những mục tiêu dinh dưỡng ăn kiêng của nước Mỹ”, khuyến cáo giảm tiêu thụ thực phẩm động vật. Tuy vậy, nếu chỉ giảm thực phẩm động vật thì có thể gây mất quân bình trong chế độ ăn. Thực phẩm động vật là những thức tạo axit mạnh và chứa nhiều đạm, mỡ và natri. Ngược với thực phẩm động vật, trái cây là những thức tạo kiềm mạnh và chứa nhiều đường, vitamin và kali. Do vậy, trong chế độ ăn, thực phẩm động vật cân bằng tốt với trái cây là đồ tráng miệng. Tuy nhiên, nếu việc tiêu thụ thực phẩm động vật bị giảm như được khuyến cáo thì việc tiêu thụ trái cây cũng phải giảm. Nếu không ăn thực phẩm động vật và lạm dụng trái cây sẽ dẫn đến tình trạng âm hoá gây ra bởi quá nhiều vitamin và đường trái cây (triệu chứng âm là người lạnh, mệt mỏi, béo phệ, các chứng sưng viêm đủ kiểu, mất kinh, thiếu hồng cầu, lãnh cảm...). Ta hãy khuyến khích nông dân thay đổi từ canh tác trái cây sang cốc loại. Điều này khiến cốc loại giảm giá thì người ta sẽ ăn nhiều cốc loại trong chế độ ăn, vốn sẽ cải thiện sức khoẻ của họ. Nếu giá cốc loại giảm, nông dân trồng cốc loại phải đối mặt trước việc thu nhập thấp. Để bù lại trở ngại này, ta có thể đánh thuế lên sản xuất trái cây rồi chi lại cho người trồng cốc loại. Thuế cao sẽ tăng giá trái cây và điều này sẽ cản người ta khỏi lạm dụng trái cây. Cũng vậy, để thành công trong việc giảm canh tác trái cây, chính phủ Mỹ phải giáo dục công chúng rằng việc tiêu thụ trái cây có thể giảm xuống đến 1 kg một tuần mỗi người. Nếu người ta ăn ít trái cây đi và tăng thêm cốc loại thì nông dân sẽ giảm trồng trái cây và tăng cốc loại, thế thì sẽ không cần phun thuốc diệt ruồi med. Đây là giải pháp thực sự cho hội chứng ruồi med. -------------------- Mini chan ga ichiban
![]() ..::Mini::.. |
|
|
![]()
Bài viết
#25
|
|
![]() Rinkitori Tojimomi ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 125 Gia nhập vào: 7-February 07 Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ Thành viên thứ.: 3 ![]() |
24. Hoa Kỳ học tập từ Nhật Bản
Tháng 3 năm 1982 I Vào ngày 7-12-1941, hơn 40 năm về trước, hàng không mẫu hạm Nhật Bản đã tấn công Trân Châu cảng để phá hủy sự phong tỏa tuyến đường nhập khẩu dầu lửa từ Indonesia. Trước cuộc tấn công này, Nhật Bản gia nhập liên minh Berlin-Roma và cuối cùng tuyên chiến chống lại khối đồng minh để qua khỏi cái chết đang đe dọa mình. Vì chiến lược chiến tranh học từ nhà chiến lược Trung Hoa cổ đại Tôn Tử, quân đội Nhật Bản quyết định tấn công Trân Châu cảng trước khi nước Mỹ sẵn sàng. Hành động này làm bàng hoàng người Mỹ, nền công nghiệp Mỹ và thế lực chính trị Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, làm chết 313.814 phụ nữ, trẻ em và người vô tội. Đây là nguyên nhân mà chính phủ Nhật Bản đầu hàng hoàn toàn. Bởi sự đầu hàng này mà Nhật Bản đã mất tất cả sự đầu tư và quyền lợi của mình ở Manchiria, Formosa, Okinawa và Karafuto. Gần 75 triệu người bị dồn vào sống trong một đảo nhỏ hơn California, nơi sản xuất chỉ một ít dầu, gỗ, than đá, sắt thép và các kim loại khác, không sản xuất ra len, bông, vật nuôi, sữa... Thứ duy nhất mà Nhật Bản có thể sản xuất đủ cho nhu cầu của mình là lúa gạo, cá và rau quả. Điều này lại có thể giúp cho sức khoẻ, vì toàn bộ lúa gạo và rau xanh khi đó được dùng không qua chế biến và không có hóa chất. Khi chiến tranh kết thúc vào ngày 15-8-1945, phần lớn các thành phố của Nhật Bản đã bị phá hủy. Nhà cửa, trường học, bệnh viện, nhà máy, cửa hàng, văn phòng, các ngành kinh doanh, hệ thống thông tin và vận tải bị đóng cửa. Chính phủ cung cấp thực phẩm: gạo trắng, khoai lang và đậu tương. Theo “Nhật Bản: hôm qua và hôm nay” của Paul Langer (NXB Holt, Rinehart, and Winston, Inc., 1966): “Trong suốt năm đầu sau chiến tranh, thực phẩm tiêu thụ chủ yếu ở Tokyo giảm xuống 1.300 calo, so với 2.200 calo trong những năm 1930 và hơn 3.000 calo là lượng trung bình ở Mỹ. Số lượng thực phẩm ở các khu vực thành thị bị giảm mạnh do không đủ phương tiện vận tải và nhiên liệu. Điều này gây khó khăn cho việc cung cấp thực phẩm cho các thành phố. Để tồn tại, hàng ngàn người thành thị ra nông thôn hàng ngày để tìm kiếm sự đổi chác quần áo và các vật dụng khác lấy thức ăn”. Nói cách khác, những con người thất nghiệp đã về nông thôn trao đổi quần áo hay những vật dụng khác lấy khoai tây, lúa gạo và rau quả, misô và tương... với giá chợ đen; sau đó họ quay trở lại thành phố, thị xã và bán chúng với giá cao hơn. Thỉnh thoảng họ bị cảnh sát và những người kiểm tra ở các sân ga bắt. Cảnh sát lấy những thực phẩm này từ những người buôn bán nghèo khổ (yamishi) và giữ chúng lại như một món tiền thưởng phụ. Sức khoẻ của khoảng 1/4 dân số đất nước bị hủy hoại bởi không khí. Nhật Bản đã thiếu mọi thứ, kể cả nhà ở, quần áo và nhiên liệu. Đặc biệt, thực phẩm rất khan hiếm đến nỗi người ta phát điên lên về thức ăn. Nông dân bán sản phẩm của họ với giá đắt đỏ. Sau chiến tranh, nhiều nông dân trở nên giàu có, nông nghiệp được đưa vào cơ giới hóa và sản xuất được nhiều thực phẩm hơn. Nền kinh tế sau chiến tranh của Nhật bắt đầu khôi phục lại nhờ những người nông dân. Vào năm 1945 có 72,4 triệu người Nhật Bản được cung cấp thực phẩm nhập khẩu trị giá khoảng 1 triệu đô la hàng ngày từ Mỹ cho tới năm 1950 (“Nhật Bản: hôm qua và hôm nay”). Gạo, lúa mì, đậu tương... là loại hàng chính. Cái mà người Nhật cần không chỉ là thực phẩm mà còn mọi thứ khác như quần áo, khí cụ, xe đạp, xe ngựa, ô tô và xe tải... Tại nhà máy của cha tôi, nhà máy luyện kim, công nhân làm xoong chảo nhôm; họ lấy và bán chúng trên đường. Họ bán giống như bán bánh vậy. Mọi thứ đều được bán ngay lập tức, bởi vì mọi thứ đều bị phá hủy bởi bom đạn. Dần dần, mọi đường phố được làm sạch và các cửa hàng được mở lại. Nhiều nhà máy bắt đầu làm việc lại. Khi nhiều người quay trở lại từ nơi sơ tán ở ngoại ô, sự chuyên chở bằng xe cộ được dùng đến. Xe máy bắt đầu được sản xuất lại và sau đó là ô tô: Honda, Nissan và Toyota. Chúng bắt đầu từ con số không. Thật đáng ngạc nhiên là Toyota và Nissan đạt tới 13 tỷ đôla xuất khẩu vào năm 1980. Vào năm 1963, các hãng xe hơi Nhật Bản mới chỉ xuất khẩu sang Mỹ 7.500 xe ôtô con và xe tải với trị giá khoảng 7 triệu đôla (theo Tạp chí Xe hơi, tác giả John B. Rae, ấn phẩm của trường đại học Chicago, năm 1965); Đến năm 1980 họ đã xuất khẩu được 2.4 triệu xe với trị giá 10 tỷ đôla. Ngược lại, các hãng sản xuất xe hơi của Mỹ lại đang gặp khủng hoảng vì số lượng xe bán ra. Năm 1978, hãng Chrysler thua lỗ 200 triệu đôla, năm 1979 lỗ 1.1 tỷ đôla và năm 1980 lỗ 1.7 tỷ đôla. Năm 1980, hãng xe Ford lỗ 1.5 tỷ đôla và General Motor lỗ trên 700 triệu đôla. Cũng trong năm này, 15 các nhà sản xuất ôtô và 600 các đại lý bán xe ôtô của Mỹ phải đóng cửa (theo tạp chí Chiến lược Kinh doanh của Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Nomura, 1981). Từ khi ngành công nghiệp ô tô của Mỹ chiếm từ 16 - 20% tổng thu nhập quốc dân (GNP), sự suy thoái của ngành công nghiệp ô tô cũng là một nhân tố quan trọng làm suy thoái nền kinh tế Mỹ. Đây là lý do mà chính phủ và các nghiệp đoàn Mỹ gây sức ép với chính phủ Nhật để quản lý việc xuất khẩu xe hơi Nhật, mặc dù giới doanh nghiệp Mỹ vẫn hoạt động dựa trên quan điểm tự do cạnh tranh. Cuối cùng, vào năm 1981, chính phủ Nhật Bản đã chấp thuận trước sức ép của Mỹ và công bố chính sách tự kiểm soát đối với việc xuất khẩu xe hơi. Hiện nay, các nhà sản xuất xe hơi Nhật chỉ xuất khẩu 65,5% khả năng của mình (Chiến lược Kinh doanh Nhật Bản). Tuy nhiên, đó cũng không phải là một giải pháp. Vào cuối năm 1981, tình trạng kinh doanh xe hơi của Mỹ trở nên xấu hơn. Theo báo Newsweek số ra ngày 9-11: Chủ tịch hãng xe hơi General Motor gọi sự việc này “xẩy ra đối với GM trong ngành công nghiệp ô tô, và theo chúng tôi cũng xảy ra đối với bất kỳ một nhà sản xuất xe hơi lớn nào của Mỹ”. Ông ta đã không quá cường điệu. Trong một buổi lễ vào cuối tuần trước tại Clark, bang New Jersey, Smith đã giao hợp đồng cho nhà máy sản xuất vòng đệm Hyatt để đổi lấy 15 triệu đô la đặt trước bằng tiền mặt và 100.000 cổ phiếu ưu đãi. Người nhận hợp đồng này là Alan V. Lowenstein, đại diện cho một nhóm những người nguyên là công nhân của GM, họ đã quyên góp được 60 triệu đô la để mua lại nhà máy và đồng ý cắt giảm lương của mình 25% - tất cả vì một lý do để cứu lấy công việc của mình. Ngay cả cho tới gần đây, việc bán một phần nhà máy của GM cho công nhân của mình là điều không thể nghĩ tới. Đây là việc đánh dấu thời kỳ đáng buồn của ngành công nghiệp xe hơi, hiện tại là năm thứ ba của thời kỳ khủng hoảng tồi tệ nhất trong vòng nửa thập kỷ qua. Doanh số bán trong vòng 20 ngày của tháng Mười sụt giảm 130.480 cái so với cùng thời kỳ năm ngoái. Cuối tuần trước, công ty Ford và Chrysler báo cáo kết quả quý 3 lỗ tương ứng là 355 triệu và 149 triệu đôla. Trước đó, GM đã công bố lỗ 468 triệu đôla. Ngành công nghiệp ô tô Mỹ trở nên tồi tệ hơn nhiều vào vào đầu năm 1982 khi mà chủ tịch của UAW, ông Douglas A. Fraser, đề nghị chủ tịch GM cắt giảm lương công nhân để nhằm hạ thấp giá xe bán lẻ nhằm giúp công ty cạnh tranh với các xe hơi của Nhật (Business Week, ngày 25-1-1982). Thái độ này giữa lãnh đạo công nhân và giới chủ là dấu hiệu cho thấy giới doanh nghiệp Mỹ sẽ buộc phải đạt được sự hợp tác giữa giới chủ và công nhân, điều mà Nhật Bản đã thực hiện trong nhiều năm qua. Một ngành công nghiệp khác cũng rất phát triển mà chính phủ Nhật buộc phải kiểm soát xuất khẩu, đó là ngành công nghiệp sắt thép, mặc dù Nhật Bản phải nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất. Với sản lượng 32,9 triệu tấn thép năm 1980, Công ty Shin Nippon Seitetsu K.K. là nhà sản xuất thép lớn nhất trên thế giới, hơn cả tổng sản lượng của Italy (26.5 triệu tấn) hay Pháp (23,1 triệu tấn). Các công ty thép Nhật Bản dẫn đầu cả những nước từng là thầy của minh về công nghệ - Mỹ và châu Âu, không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Sau đây là một số ví dụ. Năm 1980, công ty thép Sumitomo Metal Industries xuất khẩu kỹ thuật sản xuất thép ống cỡ lớn cho Mỹ; năm 1981, công ty New Nippon Seitetsu nhận được đơn hàng của công ty Pittsburgh Steel Company để xây dựng nhà máy xử lý thép phế liệu trị giá 100 triệu đô la, và Nippon Kokan đang thỏa thuận với Ford đẻ sáp nhập với công ty sản xuất thép, Rouge River Steel (Tạp chí Chiến lược Kinh doanh Nhật Bản). Người Nhật là những công nhân chăm chỉ, nhưng họ không phải là những người nô lệ cho công việc. Họ yêu thích thể thao, ca nhạc, nhảy múa và các nghệ thuật giải trí khác. Họ thích hưởng thụ cuộc sống. Đây là lý do mà hai kỹ sư quân sự đã bắt đầu khởi nghiệp một công ty chuyên về sản xuất máy thu chỉ với 500 đô la vào tháng 5-1946, một năm sau khi Nhật Bản đầu hàng. Đường phố Tokyo còn khét lẹt mùi khói, tình hình an ninh mất trật tự, nhiều người còn ngủ trong các căn lều quây bằng tấm thiếc. Các cửa hàng thì hầu như đều đóng cửa. Hai kỹ sư đó, Masaru Ibuka và Akira Morita, biết rằng người Nhật đều thích giải trí. Họ cảm thấy rằng máy thu và rađiô sẽ là các mặt hàng bán chạy. Công ty này chính là Sony. Họ đã mua quyền sử dụng bóng bán dẫn từ công ty Western Electric vào năm 1953 với khoản thanh toán trước là 25.000 đôla. Đó là một khoản tiền quá lớn đối với khả năng tài chính của họ. Đây là một canh bạc lớn, nhưng là một quyết định quan trọng để 25 năm sau đó, công ty Sony trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới. Tuy thất bại tại Trân Châu Cảng năm 1941, nhưng Nhật Bản đã thắng Mỹ bằng các sản phẩm của mình. Khi tôi đến Mỹ vào năm 1952, hầu hết các sản phẩm của Nhật đều được coi là hàng hóa rẻ tiền và chỉ được bán trong các cửa hàng cấp thấp. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, sự ra đời của đài bán dẫn Sony và đặc biệt là tivi của hãng đã làm thay đổi cách nhìn này. Năm 1946, tivi màu của Sony, Matsushita, Hitachi, Toshiba, Sharp và Sanyo chiếm tới 40% thị trường Mỹ. Họ đã sản xuất với số lượng gần gấp đôi các công ty Mỹ sản xuất trong năm 1975. Việc nhập khẩu các sản phẩm của Nhật Bản tăng quá nhanh khiến các nhà máy của Mỹ bị đóng cửa và khoảng 65.000 công nhân bị sa thải. Uỷ ban bảo vệ ngành sản xuất tivi màu của Mỹ đã yêu cầu chính phủ tăng thuế suất nhập khẩu hàng Nhật, nhưng đã bị Tổng thống Carter từ chối. Tuy nhiên, sau khi nhìn nhận tình hình kinh tế Mỹ, chính phủ Nhật Bản đã khống chế số lượng tivi tối đa xuất sang Mỹ là 1,75 triệu cái mỗi năm và thực hiện trong vòng 3 năm. Số lượng này chiếm 41% khả năng xuất khẩu của Nhật Bản trong năm đó (Tạp chí Chiến lược Kinh doanh Nhật Bản). Xuất khẩu của Nhật Bản về thép, ô tô, tivi và sản phẩm bán dẫn đã tạo ra nhiều xung đột trong nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, xe máy, máy ảnh, máy photocopy, đàn piano và dây kéo khóa của Nhật không có đối thủ cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Nếu Mỹ sản xuất các sản phẩm này thì Nhật Bản sẽ là đối thủ cạnh tranh lớn nhất. Sức mạnh kinh tế thần kỳ của Nhật Bản không chỉ ở số lượng hàng hóa xuất khẩu mà còn biểu hiện cả trong tình hình kinh tế của mình. Trong khi Mỹ và các nước châu âu đang bị lạm phát ở mức hai con số và kinh tế phát triển trì trệ thì Nhật Bản lại là một ngoại lệ. Nhật Bản giữ được lạm phát ở mức một con số, duy trì lãi suất cho vay thấp và đạt tỷ lệ thu nhập quốc dân cao (GNP). Các công ty Nhật Bản nổi trội hơn các công ty của Mỹ và châu âu trong việc duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp, có ít các cuộc bãi công, lợi nhuận công ty cao hơn và hoạt động thị trường cổ phiếu tốt hơn. II Tại Mỹ và châu âu, nhiều học giả và các nhà văn đã viết về sự tăng trưởng kinh tế kỳ diệu của Nhật Bản từ sau Thế Chiến II. Ezra F. Vogel, giáo sư xã hội học của trường Đại học Harvard, viết trong bài Nhật Bản là số 1 (tập san của Đại học Harvard, 1979) rằng nước Mỹ cần phải học tập Nhật Bản. Nhật Bản đã học từ Mỹ và châu âu để cải thiện hệ thống kinh tế của mình - và vẫn còn tiếp tục học, nhưng Mỹ chưa bao giờ học ai khác ngoài các nước châu âu, mặc dù họ đã thấy hệ thống của mình chưa hoạt động tốt. Giáo sư Vogel đã đưa ra lý do tại sao Nhật Bản thành công. Điều đầu tiên là họ luôn cố gắng thu thập kiến thức và thông tin - dù đó là công ty, hiệp hội, cơ quan chính quyền trung ương hoặc địa phương hay một cá nhân. Ví dụ, không có một công ty Mỹ nào có thể cạnh tranh về số lượng và độ chính xác của thông tin do các công ty thương mại của Nhật Bản thu thập. Thứ hai, trong hoạt động kinh doanh của người Nhật thì kiến thức và thông tin thu thập được sử dụng trong việc ra quyết định của cả tập thể. Do vậy, nhìn chung các quyết định đưa ra là kết quả của việc nghiên cứu kỹ lưỡng và hỗ trợ của tập thể. Thứ ba, các thương gia Nhật Bản học tập hệ thống kinh doanh của châu âu ngay từ đầu thế kỷ 20 nhằm cải cách hệ thống của mình. Đặc trưng trong hệ thống của Nhật Bản là thực hiện kế hoạch dài hạn, chế độ tuyển dụng suốt đời với mức lương tăng theo độ tuổi và sự trung thành đối với công ty. Về kế hoạch dài hạn, các doanh nghiệp Nhật Bản thường coi trọng lợi ích lâu dài trong tương lai hơn là những cái lợi trước mắt. Chính vì vậy mà các công ty Nhật đầu tư nhiều vào máy móc thiết bị và nghiên cứu. Hình thức hoạt động như vậy có thể thực hiện thông qua vốn vay ngân hàng mà không cần huy động vốn đầu tư từ công chúng. Theo nghiên cứu của giáo sư Vogel, 50% vốn của các công ty Mỹ được huy động từ công chúng, trong khi con số này ở Nhật chỉ chiếm 10%. Nhờ vậy các công ty Nhật có thể tập trung vào lợi ích tương lai mà không bị sức ép từ các cổ đông, vì cổ đông là những người mong muốn lợi nhuận tức thời hơn là lợi nhuận trong tương lai. Kế hoạch dài hạn liên quan mật thiết với việc tuyển dụng suốt đời. Tại Nhật Bản, phần lớn mọi người làm việc tại một công ty từ khi tốt nghiệp cho tới lúc nghỉ hưu, lúc khoảng 57 tuổi. Theo hệ thống này, công ty sẽ tăng lương, thăng chức, cung cấp phúc lợi và lương hưu đều đặn. Nhân viên không phải lo bị mất việc làm trừ khi có khủng hoảng bất thường và trừ trường hợp công ty lâm vào tình trạng phá sản, phải bố trí công việc mới cho nhân viên của mình. Các công ty lớn tại Nhật Bản được sự hỗ trợ của ngân hàng, còn ngân hàng thì được sự hậu thuẫn của chính phủ, vì vậy nếu nhân viên thẳng thắn và trung thực thì các công ty khó có thể bị phá sản. Do các nhân viên làm việc trong cùng một công ty trong suốt cuộc đời, tự nhiên họ trở nên trung thành với công ty. Đa số hết lòng tận tuỵ vì công ty. Sự tận tụy này làm cho hệ thống kinh doanh trở nên bất thường – nó là một hệ thống "vắt kiệt'. Các nhân viên ở vị trí thấp phải lên kế hoạch, nghiên cứu, thu thập thông tin và tham khảo với các nhân viên khác và đề xuất ý kiến cho người phụ trách. Cuối cùng, lãnh đạo và nhân viên trong các công ty Nhật đều thống nhất trong tinh thần một gia đình. Điều này cũng tương tự như tình đồng môn của các sinh viên đại học Mỹ. Nhiều doanh nghiệp lớn có khu nghỉ mát và nhà ở riêng, thậm chí có cả đội thể thao nữa. Các đội thể thao chuyên nghiệp của Mỹ do cá nhân sở hữu, còn ở Nhật Bản thì do các công ty sở hữu. Các nhân viên đều thống nhất vì tinh thần thể thao chung. Người Nhật có xu hướng tập thể hóa. Ví dụ, nhân viên Mỹ thường lo lắng về vị trí và tiền lương nhận được vì đó là thước đo sự thành đạt của họ. Còn đối với nhân viên Nhật thì không phải vậy. Giá trị quan trọng nhất là sự kính trọng và tin tưởng của các nhân viên khác đối với mình. Giáo sư Vogel chỉ ra rằng giám đốc Mỹ thường sa thải nhân viên để duy trì mức chi trả cổ tức cho các cổ đông, từ đó tạo ra sự không tin tưởng của người lao động vào ban lãnh đạo. Các giám đốc Nhật không bao giờ làm một việc như vậy. Giáo sư Vogel cho rằng hệ thống của Nhật Bản hoạt động tốt trong nhiều lĩnh vực, như chính phủ và chính trị, kinh doanh, giáo dục, phúc lợi xã hội và các vấn đề về chống tội phạm. Những ý kiến quan sát rất xác đáng. Từ đó ông khuyên người Mỹ chúng ta nên học tập Nhật Bản. Tuy nhiên, ông không thuần túy ngưỡng mộ Nhật Bản, ông cũng chỉ ra nhiều thiếu sót mà chúng ta không nên học tập. Một nhà kinh tế khác tên là Peter F. Drucker, cũng rất ngưỡng mộ sự tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản, viết về nguyên nhân của sự thành công này. Ông ta viết về sự phát triển kinh tế thần kỳ của Nhật Bản trong cuốn sách Con người, ý tưởng và chính trị (NXB Harper & Row, 1971) như sau: Chỉ trong một vài năm, Nhật Bản đã được nói tới quá nhiều bởi các nhà kinh tế, nhà ngân hàng và nhà công nghiệp - những người tới nghiên cứu về sự thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản. Arthur Burns, chủ tịch ủy ban Cố vấn Kinh tế dưới thời Tổng thống Eisenhower, đã tới thăm Nhật Bản vào năm 1963. Ông đã có ấn tượng mạnh đến nỗi đã kiến nghị Tổng thống Kenedy áp dụng một số chính sách về thuế và tiền tệ của Nhật Bản để thúc đẩy nền kinh tế Mỹ đang tụt hậu. Điều xảy ra tại Nhật Bản kể từ khi kết thúc sự chiếm đóng của Mỹ vào 4-1951 là sự thành công tuyệt diệu nhất trong lịch sử phát triển kinh tế. Drucker chỉ ra những nguyên nhân thành công của Nhật Bản như sau. Đầu tiên, người Nhật đã đầu tư hơn một phần tư thu nhập quốc dân của mình. Thứ hai, họ đã tạo ra một thị trường tiêu dùng khổng lồ và một thị trường chứng khoán lớn thứ hai trên thế giới (sau Mỹ) với nguồn tài nguyên hầu như không có gì. Thứ ba, họ có những sinh viên đại học giỏi nhất trên thế giới , chỉ sau Mỹ và Israel. Thứ tư, tuổi thọ của người Nhật đã tăng từ 50 lên 70, ngang bằng với các nước phương Tây. Trong nghiên cứu của tôi về thành công kinh tế của Nhật Bản, giáo sư Drucker là người duy nhất đã chỉ ra những điều kiện sức khỏe là nguyên nhân của sự thành công mà tôi sẽ có dịp thảo luận sau. Đối với sự phát triển kinh tế Nhật Bản, giáo sư Drucker coi ba hệ thống sau đây là quan trọng nhất: - Ra quyết định đồng thuận. Trong cuốn Con người, ý tưởng và chính trị, giáo sư giải thích tại sao nên áp dụng việc ra quyết định đồng thuận: “Đầu tiên, nó thực sự giúp cho việc ra quyết định nhanh chóng và có hiệu quả. So với phương Tây, việc ra quyết định ở Nhật Bản mất nhiều thời gian hơn. Nhưng ở phương Tây, chúng ta mất hàng năm để thực hiện một quyết định. Đầu tiên chúng ta ra quyết định và sau đó tập hợp mọi người để thực hiện. Và quyết định thường xuyên bị đổ bể hoặc phải mất thời gian để thực hiện có hiệu quả và khi đó nó đã trở nên lỗi thời”. - Tuyển dụng suốt đời. Giáo sư thừa nhận hệ thống tuyển dụng suốt đời của các công ty Nhật có thể gây ra các hạn chế: “Do vậy, doanh nghiệp Nhật Bản bị quá tải về số lượng nhân viên, hàng ngàn người được giữ lại công ty hoặc nhà máy mà không có việc để làm”. Đối với tôi đó là một thái cực và hầu hết các công ty Nhật phải được quản lý tốt để không có nhân viên nào là không có việc. Tôi cũng tán thành đôi khi không thể thực hiện chế độ tuyển dụng suốt đời (do vậy, một giáo sư khác là William Ouchi đã đưa ra chế độ tuyển dụng dài hạn để thay thế). Tuy nhiên, giáo sư Drucker cũng thừa nhận về mặt tâm lý hệ thống tuyển dụng này tốt hơn so với hệ thống của phương Tây: “Về mặt kinh tế, có thể nói chúng ta có sự đảm bảo tốt hơn và chúng ta phải trả giá cho nó. Tuy nhiên chúng ta lại không có được cái mà hệ thống của Nhật Bản đã tạo ra: sự chắc chắn về mặt tâm lý của việc tuyển dụng suốt đời, đó là công việc và thu nhập được đảm bảo.” - Đào tạo lớp trẻ. Nhân viên trẻ được cơ cấu vào đội ngũ lãnh đạo tương lai sẽ được công ty đào tạo và chăm lo. Theo giáo sư Drucker, công ty Nhật có các “bố già” là những người chuyên đào đạo các nhân viên trẻ tài năng để họ trở thành lãnh đạo tương lai. Giáo sư cũng không chắc liệu việc này có thể áp dụng vào hệ thống của Mỹ hay không, nhưng nếu thực hiện được thì nó sẽ làm giảm khoảng cách về độ tuổi của ban lãnh đạo. Tuy nhiên, giáo sư cũng thấy áp dụng cách làm này sẽ mang lại lợi ích cho các công ty Mỹ vì nó giảm thiểu được khoảng cách về thế hệ trong đội ngũ quản lý. Nhà văn Anh P.B. Stone cũng là một người ngưỡng mộ sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản sau Thế Chiến. Ông miêu tả điều này trong dịp giới thiệu cuốn sách Nhật Bản vượt lên phía trước (Frederick A. Praeger, 1969): “Một người làm công Anh quốc khoảng 25 tuổi thì không thể hy vọng nhân đôi số thu nhập thực tế cho tới khi anh ta ở vào độ tuổi 50. Một người làm công Nhật Bản có thể đạt được điều này trong vòng 7 đến 8 năm - đó là điều thần kỳ về kinh tế theo cảm nhận của một người bình thường”. Trong chương đầu tiên ông ta viết: “Sự khan hiếm tài nguyên là đặc trưng quan trọng nhất của Nhật Bản. Với sự bất lợi như vậy mà Nhật Bản vẫn đạt được tăng trưởng kinh tế thì rất đáng kinh ngạc. Nếu Nhật Bản nắm giữ được úc hoặc Alaska - là hai nơi rất giàu tài nguyên - có thể thế giới sẽ được chứng kiến sự phát triển kinh tế ngoạn mục hơn nữa, đưa Nhật Bản ngang bằng với Mỹ vào năm 1980”. Tuy nhiên, tôi không tán thành với ý kiến này. Theo tôi, chính sự khan hiếm tài nguyên đã tạo nên sự thần kỳ của Nhật Bản. Giả sử nếu Nhật Bản có nguồn tài nguyên phong phú giống như Mỹ hoặc Trung Quốc thì họ không thể có các công ty thương mại nổi tiếng trong việc mua giá gốc và bán giá trần khắp toàn cầu. Ví dụ, tòa nhà World Trade là tòa nhà cao nhất tại thành phố New York, được xây dựng bằng thép của Nhật. Tại sao vậy? Vì các công ty thương mại của Nhật bán rẻ hơn giá của các nhà sản xuất thép Mỹ. Nghiên cứu khả năng cạnh tranh giúp họ có thể mua và bán với giá lời nhất. Ví dụ, nguyên liệu được chuyên chở tới nhà máy bằng tàu thuyền thay vì tàu hỏa hoặc xe tải sẽ giảm chi phí. Cụ thể, chi phí bằng tàu thủy từ New York tới Nhật Bản thấp hơn từ Pittsburgh tới New York bằng xe tải. Stone cho rằng nhân tố con người là quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế Nhật. Tôi tán thành nhận định này. Tuy nhiên, ông ta hiểu không đúng tâm lý người Nhật. Theo ông “sự trung thành với nước Nhật là nhân tố hiệu nghiệm trong việc khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu”. Đây là một sự hiểu lầm vì người Nhật rất say mê sản phẩm và văn hóa nước ngoài. Người Nhật luôn tìm kiếm hàng ngoại và rất tự hào sở hữu chúng. Lý do duy nhất giải thích việc xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu là vì họ phát triển được công nghệ sản xuất. 10% GNP của Nhật Bản được chi dùng vào việc nhập khẩu nguyên liệu trên khắp thế giới. Thành phẩm được bán gấp 10 lần sau khi đã bổ sung thêm chất xám, máy móc và nhân công. Chỉ có 1/10 giá trị thành phẩm được giữ lại để sử dụng. Nhờ vậy, Nhật Bản là một nước có lợi thế xuất khẩu hơn là nhập khẩu. Năm 1974, giá trị xuất khẩu của Nhật Bản chiếm 9,8% GNP, thấp hơn Pháp (12,3%), Anh (16,6%) hay Đức (18,8%) - thấp hơn bất kỳ quốc gia nào, trừ Mỹ (4,4%) và Liên Xô (Tạp chí Nhật Bản Ngày nay, William H. Forbes, NXB Harper&Row, 1975). Hai cuốn sách hiện bán chạy nhất đều viết về thành công của kinh tế Nhật. Một cuốn là Nghệ thuật quản lý của người Nhật (NXB Simon and Schuster, 1981) của tác giả Richard Pascal, giảng viên môn quản trị kinh doanh của trường Đại học Standford và Anthony G. Athos, giáo sư khoa Kinh doanh của trường Đại học Harvard. Cuốn kia là Thuyết Z (nhà xuất bản Addison Wesley, 1981) của tác giả William Ouchi, giáo sư môn Quản trị kinh doanh của trường UCLA. Cả hai cuốn đều được viết tốt. “Có một xu hướng gây xáo động tại Mỹ nhằm làm rõ vào một số đặc điểm của phương pháp Nhật Bản, ví dụ về bài hát của công ty, bài thể dục buổi sáng và chế độ tuyển dụng suốt đời,” Pascal viết “Những đặc điểm tuyệt vời đó là lý do chính giải thích cho sự thành công của Nhật Bản. Rất nhiều thành công là do họ có chiến lược marketing tuyệt hảo. Người Nhật tìm cách đưa xe máy vào Mỹ thông qua mạng lưới đại lý thông thường, họ bỏ qua các cửa hàng của Harley-Davidson. Họ quyết định thành lập đại lý và thực hiện kế hoạch thị trường riêng của mình. Họ tiên phong trong thị trường xe máy giải trí và thay đổi toàn bộ bản chất về ngành kinh doanh xe máy. Không còn cảnh xe máy chỉ được bán cho các tay chơi mà cho tất cả mọi người. Đây là một quyết định quan trọng của hãng Honda vì thành công của họ không liên quan gì tới bài hát công ty hay chế độ tuyển dụng suốt đời. Đơn giản chỉ là vì họ thông minh hơn chúng ta.” Trong cuốn Thuyết Z, giáo sư Ouchi so sánh một cách hệ thống các công ty kinh doanh của Nhật Bản và Mỹ. Ông cho rằng chế độ tuyển dụng suốt đời, thăng tiến chậm, không chuyên môn hóa nghề nghiệp và ra quyết định tập thể là những lý do giải thích cho sự phát triển tốt của các doanh nghiệp Nhật. Ông cũng nhận thấy một số công ty theo mô hình của Nhật Bản cũng đã có ở Mỹ. Ông gọi chúng là công ty theo mô hình Z. Theo ông, trong mô hình Z nên sử dụng các hình thức trên trừ “chế độ tuyển dụng suốt đời” được đổi thành “dài hạn”. Ông giải thích về tầm quan trọng của các hình thức này. Chế độ tuyển dụng dài hạn tạo ra niềm tin giữa nhân viên và giới chủ. Nhân viên chấp nhận thăng tiến chậm và việc không chuyên môn hóa nghề nghiệp vì họ biết rằng mình sẽ làm việc trong một thời gian dài tại công ty. Việc này tránh được thái độ cạnh tranh giữa các nhân viên, mà thay vào đó họ sẽ giúp đỡ lẫn nhau. Theo giáo sư Ouchi, việc ra quyết định tập thể tạo ra sự sẵn sàng làm việc của các nhân viên hơn là việc ra quyết định cá nhân. Kế hoạch do tập thể quyết định sẽ dễ dàng dành được sự ủng hộ của tất cả mọi người, trong khi kế hoạch quyết định bởi một số ít sẽ gặp phải khó khăn trong việc đồng thuận sau này. Đó là một số đặc điểm của công ty theo mô hình Z. Theo giáo sư Ouchi thì General Motor, IBM, Hewlett-Packard, Rockwell International, Intel và Procter & Gamble là các công ty theo mô hình Z. Đặc điểm của phương pháp tiếp cận này nhấn mạnh việc nâng cao tâm lý cần thiết hơn so với việc nâng cao về cơ chế hay cấu trúc trong biện pháp quản lý của một công ty theo mô hình Z để đạt được kết quả. Nói một cách khác, công ty theo mô hình Z được tổ chức tốt và có lợi nhuận cần có sự tin tưởng lẫn nhau, suy nghĩ chín chắn trong hành động và sự gần gũi giữa các nhân viên, trong đó có cả ban lãnh đạo. Một công ty như vậy sẽ có điều kiện làm việc có tình người hơn chứ không phải là một nơi lạnh lẽo, làm việc máy móc và không có tình người. Theo giáo sư Ouchi, nếu mọi người làm việc thân mật với nhau thì tỷ lệ ly hôn của người Mỹ sẽ được giảm xuống. ở nơi làm việc thiếu sự gần gũi, các nhân viên không thể chia sẻ với nhau về những vấn đề khó khăn trong gia đình. Do vậy, khi trở về nhà vợ chồng sẽ trút lên đầu nhau những sự bực dọc. Không khí gia đình bất an sẽ làm cho mọi người không thể làm việc tốt. Để cải thiện tình hình của doanh nghiệp Mỹ, giáo sư Ouchi khuyên nên cải thiện “phần mềm”, còn giáo sư Vogel tiếp cận theo “phần cứng”. III Sự thành công của nền kinh tế Nhật Bản phụ thuộc vào một phong cách quản lý đặc trưng mà tôi đã có dịp giới thiệu cho các nhà văn và nhà kinh tế phương Tây. Theo ý kiến tôi, mặc dù có một số cách ứng xử xã hội của người Nhật chưa phù hợp nhưng hầu hết đều đúng đắn - chẳng hạn họ có xu hướng quá quan tâm tới các mối quan hệ và sự thừa nhận xã hội. Trong bất kỳ trường hợp nào, để thành công về mặt kinh tế, Nhật Bản đã tạo ra phong cách kinh doanh khác biệt mà chính nó đã tạo ra tư duy của người Nhật. Cách suy nghĩ nào của người Nhật đã tạo nên sự thần kỳ về kinh tế sau Thế Chiến thứ II? Một trong số đó là thái độ làm việc. Mitsuko Shimomura viết trong Tạp chí Khoa Học xuất bản tháng 11- 1981: Tôi cảm thấy sự khác biệt về quản lý giữa phương Đông và phương Tây có nguồn gốc từ thái độ làm việc. Nhìn chung, người phương Tây coi công việc là rào cản đối với tự do cá nhân, họ đánh đổi tự do của mình qua việc làm công ăn lương. Các nhà quản lý không tin tưởng vào công nhân để thúc đẩy lợi ích công ty, còn công nhân thì cảm thấy bị công ty lợi dụng. Tuy nhiên tại Nhật Bản, công việc không bị coi là xung đột với tự do nhân quyền. Người Nhật cho rằng làm việc là để sống và qua công việc họ thiết lập tính cách của mình. Không có công nhân cổ xanh hay cổ trắng nào coi quyền lợi của họ đối lập với quyền lợi của công ty; tiền lương và thưởng của một công nhân phản ánh sự thành công của công ty. Một cách suy nghĩ khác nữa có ảnh hưởng tới phong cách kinh doanh của người Nhật là trật tự suy nghĩ của họ. Ví dụ, khi viết một địa chỉ người Nhật bắt đầu bằng tên quốc gia, tiếp đó là thành phố, tên đường và cuối cùng mới là tên của mình. Ngược lại, người phương Tây ghi địa chỉ bắt đầu bằng tên của mình và kết thúc bằng tên quốc gia. Trong tương lai khi con người có khả năng sống trên các hành tinh khác nhau, người phương Tây sẽ kết thúc địa chỉ bằng tên hành tinh, còn người Nhật thì lại bắt đầu bằng tên hành tinh đó. Tôi gọi cách tiếp cận của người Nhật là “tư duy hướng tâm”, có nghĩa là trật tự suy nghĩ đi từ ngoài vào trong, hoặc từ lớn đến nhỏ hay từ sau cùng đi lên. Điều này được thể hiện qua ví dụ về ghi địa chỉ. Tôi gọi cách tiếp cận của người phương Tây là “tư duy ly tâm”, thường bắt đầu từ đối tượng nhỏ và cố gắng đạt tới quy luật hay kết luận chúng. Ví dụ vật lý học thường bắt đầu với những đơn vị nhỏ nhất. Khoa học là kết quả của lối tư duy ly tâm, do vậy nó phát triển ở phương Tây. Mặt khác, tôn giáo và triết học phát triển ở phương Đông thông qua sự chiêm nghiệm về kết quả rốt ráo, hay chiêm nghệm về sự tự nhiên của các đạo gia. Người Nhật quen với lối tư duy này và họ bao giờ cũng bắt đầu từ quy luật chung và kết thúc bằng các trường hợp cụ thể. Khoa học bị giới hạn bởi quan sát thuần túy và các giác quan, trong khi tôn giáo và triết học lại mang tính giáo điều. Hầu hết người Nhật đều quen thuộc với cách tư duy hướng tâm - tư tưởng triết học và tôn giáo, nó có thể được gọi là nhóm hóa - chịu ảnh hưởng trong một thời gian dài của Thần đạo và Phật giáo. Tuy nhiên, sau khi bang giao với phương Tây qua việc ký kết Hiệp ước Kanagawa ngày 31 tháng 3 năm 1854, người Nhật cũng đã tiếp thu được cách tư duy của người phương Tây. Họ đã hòa quyện được cách suy nghĩ của phương Đông và phương Tây. Đây là một trong các nguyên nhân quan trọng để Nhật Bản trở thành nước đứng thứ ba thế giới về phát triển kinh tế trong vòng có 100 năm. Mặc dù họ đã học rất giỏi phương Tây cách suy nghĩ cá nhân, nhưng lối tư duy phương Đông vẫn còn ăn sâu trong người Nhật. Chính vì vậy, người Nhật coi quốc gia, xã hội, gia đình và tập thể quan trong hơn cá nhân. Edwin O.Reischauer viết trong bài Người Nhật (ấn phẩm Đại học Havard, 1979) như sau: Chắc chắn không có sự khác biệt nào quan trọng giữa người Nhật và người Mỹ hay người phương Tây nói chung, hơn là xu hướng người Nhật tập trung vào tập thể, ở mức độ nào đó họ quên cả lợi ích cá nhân. Người Nhật thường có khả năng hơn người phương Tây trong hoạt đông tập thể và ít nhất cũng coi mình là một phần của tập thể. Trong khi người phương Tây thường thể hiện tính độc lập và cá nhân, còn hầu hết người Nhật thường tuân thủ về trang phục, nội quy, phong cách sinh hoạt và thậm chí là cả cách suy nghĩ của tập thể. Do cách suy nghĩ này, họ không chỉ làm việc vì ông chủ công ty mà còn vì miếng cơm manh áo của mình. Họ tôn trọng ông chủ và trung thành với công ty. Ngược lại, những người lãnh đạo công ty có trách nhiệm đáp lại sự trung thành này và cố gắng giữ công nhân cho tới khi nghỉ hưu bằng mọi cách. Vì vậy, kinh doanh của người Nhật đã tạo ra hệ thống tuyển dụng trọn đời, tăng lương theo tuổi ... mà các nhà kinh tế và thương gia phương Tây đều khiếp phục. Ngày 19-10-1981 tạp chí Times đăng bài báo của John Leo có tiêu đề “Tiêu diệt Samurai trên thị trường” cho biết cuốn sách của Miyamoto Musashi đã trở thành cuốn sách ăn khách nhất trong giới kinh doanh tại New York. Cũng theo bài báo, điều này xảy ra vì George Lois, phụ trách về quảng cáo viết cho tờ Adweek rằng “thương gia Nhật không được đào tạo kiểu giáo dục tương tự của khoa Kinh doanh Havard mà anh ta nghiên cứu, họ sống và làm việc theo một tạng sách huyền bí của một samurai vĩ đại, Miyamoto Musashi”. Tôi chắc rằng hầu hết các độc giả đọc bản dịch tiếng Anh sẽ không hiểu ý nghĩa mà Musashi muốn truyền đạt trong chương cuối cùng, Ku hay là Vô hữu (nothingness). Chương này giải thích quan điểm mang tính triết học của ông ta về nhất thể. Musashi đấu tranh để đạt được sự thống trị về kiếm đạo sau khi chiến đấu sáu mươi lần bất khả chiến bại, với chiêm nghiệm sâu sắc của mình ông ta đã đạt tới trạng thái nhất thể. Trong chương này ông ta nói về mục đích của kiếm đạo là để hiểu được nhất thể, vì không nơi nào có kẻ thù tồn tại cho nên việc chiến đấu là không cần thiết. Người nào không hiểu được chương cuối cùng này sẽ có thể hiểu sai toàn bộ sự vĩ đại của Musashi cũng như tâm lý người Nhật. Điều đó có nghĩa là Nhất thể là quan trọng nhất và mỗi cá nhân là một phần của Nhất thể. Điều tiếp theo tôi tin rằng là nguyên nhân quan trọng nhất để kinh tế Nhật phất lên, đó chính là tình trạng sức khỏe tốt được duy trì sau Thế Chiến II khi so sánh với các nước châu âu và châu Mỹ. Thực tế này đã được ghi lại qua thống kê trong Cuốn sách về các con số (NXB Heron House Publishing, LTD, A & W Publishers, 1978): - Năm 1977, 13% dân số Mỹ bị mắc chứng đau đầu trong khi ở Nhật tỷ lệ này chỉ là 0,47%. - Năm 1976, 540.000 người Mỹ nghiện sử dụng thuốc ngủ và 92.600 người lạm dụng thuốc (aspirin, thuốc giảm đau, thuốc an thần và các thuốc bất hợp pháp khác) trong khi số người Nhật sử dụng thuốc ngủ là 6.400 và số người lạm dụng thuốc là 9.700. Số người Nhật nghiện hút chỉ chiếm 1% số người Mỹ nghiện hút, mặc dù dân số Nhật bằng một nửa dân số Mỹ. - Số người chết vì bênh tim mạch trên tổng số 100.000 người ở Mỹ là 338,2 nhưng chỉ 109,1 ở Nhật vào năm 1976. - Số người chết vì bệnh ung thư ở Mỹ cao hơn gấp đôi so với ở Nhật vào năm 1974. - Một so sánh khủng khiếp nhất về tâm thần chậm phát triển: 30,4 trong số 10.000 người Mỹ được đưa tới bệnh viện tâm thần trong năm 1970 trong khi ở Nhật chỉ là 13.2. Cũng trong năm này, 63.3 trên 10.000 người Mỹ được chẩn đoán có bệnh về tâm thần; tuy nhiên con số này tăng lên 104,2 trên 10.000 người năm 1974. Cứ 100 người có một người bị mắc bệnh tâm thần. Khi nghiên cứu các số thống kê này, chúng ta rõ ràng nhận thấy lý do tại sao tình hình kinh doanh và kinh tế Mỹ tụt dốc trong khi kinh tế Nhật tăng trưởng. Điều gì gây ra sự khác biệt về sức khỏe qua con số thống kê giữa Nhật Bản và Mỹ, theo tôi đó chính là vấn đề về ăn kiêng. Điều này đã được các nhà khoa học và quan chức chính phủ Mỹ đề cập tới. Trong bài viết này tôi không có ý định thảo luận sâu về vấn đề này. Độc giả quan tâm có thể đọc trong các tài liệu về sức khỏe có liên quan. Tuy nhiên tôi muốn nói rằng việc ăn kiêng của người Nhật là một trong các nguyên nhân quan trọng nhất đóng góp cho sự phát triển kinh tế thành công của Nhật Bản. Vì gần đây truyền thống ăn kiêng của người Nhật đã bị Mỹ hóa nên sức khỏe của họ đang suy giảm. Do vậy thành công trong kinh doanh không thể kéo dài, trừ khi họ quay trở lại chế độ ăn kiêng. IV Một khi công nhân Mỹ có được lòng trung thành đối với công ty như công nhân Nhật, thì chất lượng sản phẩm, nhiệt tình công việc, việc kiểm soát chất lượng và việc tuyển dụng dài hạn sẽ được cải thiện như ở các công ty Nhật. Theo ý kiến tôi, lãnh đạo của các tập đoàn Mỹ đã không nhận thấy thực tế rằng phần đông bản chất con người là như nhau, dù ở phương Đông hay phương Tây. Thực tế, sự trung thành của công nhân Nhật đối với công ty của mình chính là sự cạnh tranh giữa các công ty tương tự nhau. Hai công ty kinh doanh lớn nhất của Nhật là Mitsui và Mitsubishi là đối thủ cạnh tranh trên 100 năm qua. Sự cạnh tranh này tạo cho công nhân lòng trung thành đối với công ty của mình. Đây cũng là tâm lý chung, ví dụ sinh viên của trường UCLA hay USC trung thành với đội bóng của trường mình. Nếu không có các trận đấu bóng giữa UCLA và USC thì lòng trung thành đó không thể được tạo dựng. Cũng tương tự như vậy đối với các thành phố, người dân San Francisco hay Bắc California là các fan trung thành của đội 49ers, còn người dân Los Angeles là các fan trung thành của Rams. Khi lòng trung thành với đội bóng được thiết lập, nó sẽ ở lại trong lòng các fan dù họ có đi bất kỳ nơi đâu. Một người bạn của tôi là fan của đội Đại bang Philadelphia, mặc dù anh ta đang sống tại Bắc California. Người Nhật sử dụng tâm lý hay thái độ tình cảm này để kích thích lòng trung thành của công nhân: chẳng hạn các đội bóng chày chuyên nghiệp của Nhật Bản do các nhà kinh doanh hay công ty sở hữu. Đội bóng chày chuyên nghiệp nổi tiếng nhất là Tokyo Giants được đặt theo tên của đội San Francisco Giants, hiện vẫn đang chơi tại New York. Là một đội bóng mạnh nhất tại Nhật và đặt tại thành phố đông dân nhất thế giới, Tokyo Giants được nhiều người biết tới. Các fan của đội này không chỉ là nhân viên của công ty sở hữu đội bóng, Yomiuri News Publishing, mà còn là những người dân sống tại Tokyo và các vùng phụ cận. Theo dõi các trận đấu qua báo chí hay truyền hình, tất cả họ đã trở thành bạn bè do có cùng một điểm chung - mọi người đều là fan của cùng một đội bóng. Người dân Tokyo tự hào vì có một đội bóng nổi tiếng tại thành phố của mình, còn nhân viên công ty là cổ động viên nhiệt tình cho các người hùng của họ. Các trận thi đấu diễn ra khi có hoạt động giao tế xã hội của công ty, và đội bóng là niềm tự hào, biểu tượng của họ. Hệ thống này cần được áp dụng cho các công ty sản xuất hàng đầu của Mỹ như General Motor, Ford, Chrysler, U.S. Steel, Arco, Shell, Standard, Exxon ... Các công ty này cần có trong tay đội bóng riêng của mình và tiến tới thi đấu trong khuôn khổ của hiệp hội các ngành công nghiệp. Bằng cách như vậy, các môn thể thao chuyên nghiệp và không chuyên sẽ đem lại lợi ích cho ngành công nghiệp và kinh tế Mỹ, thay vì một số ít người sở hữu. Các tập đoàn sẽ được đông đảo công chúng biết tới qua việc sở hữu một đội bóng. Nhớ lại trước đây việc một đội hockey trẻ của Mỹ đã chiến thắng đội bất khả chiến bại của Nga tại Thế vận hội Mùa đông 1980 đã khơi dậy tinh thần yêu nước cho biết bao nhiêu người. Cũng như vậy, các đội thể thao của công ty là công cụ để nuôi tinh thần tập thể trung thành với công ty. Theo ý kiến tôi, ưu thế của Nhật Bản so với Mỹ trong kinh doanh xuất phát từ một nhân tố: người Nhật có tính tập thể tốt hơn, không chỉ giữa các thành viên trong cùng một hiệp hội mà còn giữa giới chủ và nhân viên. Tạo ra các đội thể thao thi đấu sẽ tạo nên sự gắn kết tập thể và lòng trung thành giữa các nhân viên. Đây là điều mà công nhân và các nhà sản xuất Mỹ cần nhất hiện nay. Ngày 24-1-1982, đội San Francisco 49ers thắng đội Cincinnati Bengals trong giải Super Bowl Championship. Trên 500.000 cổ động viên cuồng nhiệt đã chào đón các cầu thủ tại trung tâm thành phố San Francisco vào đêm ngày hôm sau. Lễ chào mừng với trên nửa triệu người của thành phố với dân số khoảng 600.000 đã thực sự có ý nghĩa. Điều này chưa hề xảy ra đối với bất kỳ một minh tinh màn bạc hay ca sĩ nhạc rốc nào. Mọi người nói rằng chưa bao giờ tại San Francisco có một sự náo nhiệt đến như vậy. Nói cách khác, chiến thắng trong thi đấu thể thao cũng kích khích mọi người như chiến thắng một cuộc chiến. Ngày 26-1-1982, phóng viên Randy Shilts của tờ Thời báo San Francisco đã viết: Ngày hôm qua, các nhà xã hội học đô thị và giới thương gia đã dự đoán chiến thắng của đội bóng 49ers Super Bowl sẽ làm tăng trưởng du lịch, tinh thần cộng đồng và nâng cao hình ảnh của thành phố San Francisco. Richard Legates, giáo sư thỉnh giảng Khoa Nghiên cứu Đô thị của trường Đại học Tổng hợp San Francisco nói “rất nhiều bức ảnh chụp những người da trắng, da đen, Mỹ Latin, người gốc Tàu, tất cả hồ hởi ôm lấy nhau và cùng hòa ca, đó là dấu hiệu chính về sự thống nhất đầy sức sống của thành phố.” E. Barbara Phillips, một nhà xã hội học tại Đại học Tổng hợp San Francisco thì so sánh sự cuồng nhiệt đó với việc nâng cao tinh thần quốc gia thông qua việc giải thoát các con tin tại Iran vào năm ngoái. Tại Trung tâm Phòng ngừa Tự sát của San Francisco, giám đốc điều hành Dorothy Stapp cho biết rằng số các cuộc gọi tự sát đã giảm 50% sau chiến thắng của đội 49ers Super Bowl. “... Điều này có xu hướng xảy ra khi mọi người cùng thống nhất về một sự kiện xã hội chung có tính lôi cuốn và cuồng nhiệt”, Stapp nói. “Mọi người cảm thấy mình là một phần của cái gì đó, một sự nối kết.” Báo cáo trên về quang cảnh của San Francisco cho chúng ta thấy đội thể thao của công ty đã thống nhất các nhân viên trong công ty tới mức nào. Điều đó được duy trì ngay cả khi đội bóng bị thua, vì thua chính là sự bắt đầu của chiến thắng. Trong bất kỳ tình huống nào, lợi ích lớn nhất mà công ty nhận được do có đội bóng là tăng sự gần gũi giữa nhân viên và lãnh đạo công ty. V Người thầy của tôi, George Ohsawa, tiên đoán sự suy thoái của kinh tế Mỹ cách đây 20 năm. Ông viết trong cuốn Thiền Thực Dưỡng: “Đế chế Mỹ, thành tựu vĩ đại của văn minh hiện đại, đang quằn quại chết. Đoạn kết này dường như là định mệnh của nhân loại, nó sẽ xảy ra vào lần thứ 25 trong lịch sử thế giới. Nó bắt nguồn từ khái niệm có tính logíc, phân tích, vi mô, cơ học, mổ xẻ và khoa học về vũ trụ của con người.” Sau đó Ohsawa trao một món quà cho phương Đông - ông gọi đó là “nguyên lý vô song”, phương pháp ăn kiêng Thực Dưỡng và ứng dụng của nó. Vào thời điểm quan trọng này, nhiệm vụ của chúng ta là trao cho người dân Mỹ món quà lớn nhất chúng ta có được từ phương Đông - một báu vật tối cao, vô hình và được kế thừa từ ông bà từ 5.000 năm. Do chúng ta mắc nợ quá nhiều nền văn minh phương Tây từ chuyến thăm lần đầu tiên của Đô đốc Perry tới Nhật Bản cách đây 100 năm, món quà của chúng ta là một phần để trả cho món nợ đó. Khiêm tốn nhưng đầy tự tin, chúng tôi trao tặng “nguyên lý vô song” của tự do, sức khỏe, hạnh phúc và hòa bình cho thế giới; nó sẽ hữu ích và có đầy đủ thông tin cho các bạn bè Mỹ của chúng ta. “Nguyên lý vô song” (nguyên lý về âm và dương) đã được phát triển qua triết học cổ. So với triết học phương Tây và khoa học kỹ thuật mang tính quyết đoán, vật chất, phân tích, mổ xẻ và nguyên tử, quan điểm của chúng tôi lại mang tính nghịch lý, biện chứng, toàn cảnh và vũ trụ - một hệ thống về chứng nghiệm có tính toàn thể, thống nhất và sáng tạo. áp dụng vào phương Tây lý thuyết cổ của phương Đông sẽ rất thú vị. Kỹ thuật sinh học và tâm lý học - Thực Dưỡng (macrobiotics) - chính là ứng dụng của lý thuyết đó vào nghệ thuật sống thọ và hồi xuân. Nó có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống phương Tây. Đây chính là điểm “Đông gặp Tây” để có thể tạo ra nền văn minh mới nổi trội. Đã có hàng ngàn, hàng ngàn người châu âu và Mỹ thực hiện ăn kiêng và sinh hoạt thực dưỡng. Họ đã cải thiện được sức khỏe và sống rất hạnh phúc. Triết học và ăn kiêng thực dưỡng là nguyên nhân thực tế về thành công kinh tế của Nhật Bản, thậm chí họ không nhận biết được điều đó - vì cách ăn kiêng của họ có đôi phần khác với phương pháp thực dưỡng. Đó là cách ăn kiêng ban đầu tại Nhật Bản trước khi du nhập lối sống phương Tây, và người Nhật quay trở lại cách thức này một thời gian sau Thế chiến II do sự thiếu thốn về thực phẩm. Từ kinh nghiệm 20 năm giảng dạy của mình, tôi tin rằng nước Mỹ sẽ là một trong những quốc gia lớn trên thế giới nếu người Mỹ tiếp thu được triết học và ăn kiêng Thực Dưỡng. Tôi đồng ý với Ohsawa khi ông nói “Nếu người Mỹ hiểu về tâm lý và triết học phương Đông sâu hơn, và nếu Mortimer Adler biên soạn một cuốn từ điển bách khoa toàn thư khác trong đó có tư tưởng phương Đông thì sẽ không bao giờ sẽ xảy ra các cuộc chiến tranh trong tương lai; một nền văn minh mới sẽ kéo dài ít nhất 2.000 năm.” -------------------- Mini chan ga ichiban
![]() ..::Mini::.. |
|
|
![]()
Bài viết
#26
|
|
![]() Rinkitori Tojimomi ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 125 Gia nhập vào: 7-February 07 Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ Thành viên thứ.: 3 ![]() |
25. sự giáo dục của người mẹ
Tháng 5 năm 1982 Có hai loại giáo dục: một loại thuộc giáo dục thiên về vật chất, loại kia là giáo dục tâm linh. Giáo dục vật chất trong các trường học hiện tại đang cống hiến kiến thức khoa học, kỹ thuật, văn hóa và nghệ thuật, thủ công và kỹ nghệ. Vì hầu hết mọi người quan niệm hạnh phúc là đạt được điều gì họ mong muốn, là thực hiện được tiện ích vật chất. Nền giáo dục tân thời hay giáo dục duy vật nhằm tiến tới hạnh phúc đó bằng phương tiện duy vật và bằng tích trữ vật chất được gọi là tiền bạc. Có một số người nghĩ rằng nền giáo dục hiện nay cũng hướng tới tâm linh. Đúng thế, nhưng các lối giáo dục ngày nay, phần lớn là duy vật vì chú tâm truyền dạy kiến thức và kỹ thuật, liên hệ đến lạc thú và tiện ích vật chất là yếu tố quan trọng cho hạnh phúc toàn diện. Nhưng hạnh phúc đó không tuyệt đối mà chỉ tương đối thôi. Nói cách khác, các thứ hạnh phúc đó sẽ trở thành bất hạnh và bất ổn sớm hay muộn thôi. Vả lại, hạnh phúc của người này là bất hạnh của kẻ khác. Do đó, lối giáo dục hiện tại, nhằm giải quyết hạnh phúc của đa số, nhưng không phải của tất cả, một thứ hạnh phúc trần tục, hạn hẹp, chứ không phải loại hạnh phúc miên viễn. Giáo dục tâm linh đưa con người đến hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu. Loại giáo dục này rất khó truyền dạy và hiếm có người tiếp thu được. Những người lĩnh hội được loại giáo dục này luôn luôn trở thành vĩ nhân trong lịch sử loài người. Vì tinh thần và đức hạnh biểu lộ qua cơ thể nên điều kiện sinh lý là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển tâm linh. Như vậy một đường lối giáo dục mới bắt đầu - giáo dục Thực Dưỡng sẽ giải quyết vấn đề làm cho con người hưởng được hạnh phúc vô tận, vui sống với sự sung mãn vật chất và tiện nghi. Giáo dục Thực Dưỡng cũng có thể chia làm hai phần. Phần thuộc về vật chất: một nhà Thực Dưỡng phải có hiểu biết về phương pháp lựa chọn thực phẩm, nấu ăn, cách ăn uống để phòng và chữa trị bệnh tật; giải thích tất cả các hiện tượng và khoa học thông qua nguyên lý âm dương và trật tự vũ trụ. Phần kia là giáo dục tâm linh, nó cũng giống như mọi sự giáo dục tâm linh khác vì chỉ có một loại giáo dục tâm linh thôi. Vậy thì giáo dục tâm linh là gì? Giáo dục tinh thần là một nền giáo dục chỉ cho ta trí phán đoán siêu tột như là lòng ngay thật tuyệt đối, lòng tri ân chứ không phải phàn nàn, không kỳ thị, không thù hận căm phẫn. Làm cách nào và ai có thể giáo dục được các điều ấy? Trong lịch sử loài người, các vĩ nhân thường xuất hiện và dạy ta trí siêu đẳng, như Chúa Jesus, Phật Thích Ca, Lão Tử. Làm thế nào các vị đó đã học được lý tính siêu xuất này? Họ sinh ra đã biết rồi ư? Thực ra, hạt giống đức hạnh này mọi người đều có. Mọi người đều có năng lực tiềm ẩn để trở thành bậc trưởng thượng. Nhưng ít có ai nhận ra được trí siêu đẳng và thánh đức ấy, mà có nhận được thì cũng nhờ giáo dục tâm linh? Vậy thì ai truyền cho các bậc thánh đó? vì có khi họ không tốt nghiệp trung học hay đại học, có thể không học cả bậc tiểu học nữa. Đó là người mẹ. Nhà giáo dục vĩ đại nhất trên trần gian này đã là và sẽ là mẹ hiền, người có thể chưa từng tốt nghiệp trung hay đại học. Người mẹ có thể không biết đọc hay biết viết nhưng có thể làm cho con bà trở thành một con người vĩ đại. Abraham Lincoln, tổng thống thứ 16 của Mỹ, một lần nói với bạn ông ta là Billy Herndon rằng: “Tất cả những điều tôi có được ngày hôm nay là nhờ mẹ tôi, cầu Chúa phù hộ cho bà”. Những điều Lincoln nói gần như không thể tin được bởi vì mẹ ông ta, Nancy Hanks, đã mất khi ông ta mới lên 9 tuổi. Làm sao mà một chú bé 9 tuổi có thể học được đức hạnh và sự công bằng đã làm ông trở thành tổng thống của nước Mỹ tốt nhất trong những nhà chính trị đáng kính trong lịch sử? Lincoln được giáo dục theo hệ chính quy chưa đến một năm. Sau đó, ông ta tự học với sự giúp đỡ của bà mẹ khoảng ba năm cho đến khi bà mất. Lincoln đã học được lòng nhân hậu và óc phán đoán cao, điều đó nói lên rằng: tính chân thành, sự chính trực, lòng nhân hậu và dũng cảm. Ông đã có nó trong một thời gian rất ngắn. Sao mẹ ông ta đã truyền lại được cho cậu con trai đức hạnh và óc phán đoán cao trong thời gian rất ngắn như vậy? Đây là một ví dụ của sự giáo dục tâm linh không phải từ trường lớp hay ngôn ngữ. Điều này do sự giáo dục của bà mẹ. Bà dạy bảo chỉ với vài câu nói cùng những ví dụ đơn giản. Mahatma Gandhi, một nhà lãnh đạo tinh thần không chỉ của dân tộc ấn Độ mà của cả thế giới, sống với bà mẹ cho đến tuổi 18. Khi ông trở về nhà từ Luân Đôn, mẹ ông đã mất. Một điều quan trọng ông học được từ bà mẹ của ông là tính thánh thiện. Ông nói trong tiểu sử của mình: “Cảm tưởng sâu sắc về mẹ tôi đã để lại trong tôi là tính thánh thiện”. Nhờ học được tính thánh thiện của người mẹ mà ông được gọi là linh hồn của ấn Độ. Một ví dụ nữa về lối giáo dục của người mẹ được kể lại bởi George Ohsawa, người sáng lập phong trào Thực Dưỡng ở những nước Tây Âu. Một hôm ở Tokyo vào khoảng năm 1963, tại một cuộc hội thảo, tiên sinh kể với chúng tôi về bà mẹ của mình như một nhà giáo dục trong suốt cuộc đời của tiên sinh: Mẹ tôi ly hôn khi bà 25 tuổi, sau năm năm lấy chồng. Sau đó, bà học y tá đỡ đẻ ở Đại học Do-Shi-Sha (một trường công giáo ở Tokyo) để giúp đỡ gia đình bà. Sau khi tốt nghiệp, bà bận rộn giúp đỡ những kẻ ốm đau và nghèo khó. Bà luôn tận tình làm việc giúp đỡ người nghèo. Quan điểm của bà sau này đã ảnh hưởng đến tôi. Tính cách nổi bật nhất ở bà là chưa bao giờ bà phàn nàn về sự mệt mỏi, sự thiếu vắng chỗ dựa của người chồng hay khó khăn về tài chính của mình... Sau 5 năm làm lụng vất vả, mẹ tôi bị bệnh lao và có thể tại vì bà ăn uống kiểu phương Tây. Lúc bệnh tình đã trầm trọng, bà gọi chúng tôi lại cạnh giường và bảo tôi hãy theo nghiệp học hành vì tôi thuộc âm, còn em trai tôi thì quá dương nên hãy theo binh nghiệp. Nằm yên lặng được nửa giờ thì bà lâm chung. Bà không bao giờ khóc hay than vãn dù rất lo âu về tương lai của hai con, rất căm giận về sự bội bạc của cha tôi và bận tâm về tài chính eo hẹp của gia đình. Đó là một đường lối giáo dục. Mọi người thường nói quá nhiều. Vì vậy họ không gây nổi ấn tượng cho người khác về đức hạnh hay thái độ cao cả. Không dùng lời nói là mẹ tôi đã dạy cho tôi nết hạnh không than trách vào giờ phút mòn mỏi kiệt lực. Nhờ theo cách cư xử như vậy tôi đã hướng dẫn được hàng ngàn người vào phương pháp Thực Dưỡng. Tôi được như hiện nay và mong muốn của tôi trong tương lai đều do ảnh hưởng của bà, người đã mất khi tôi 10 tuổi”. Thế thì Lincoln, Gandhi và Ohsawa đều dạy cho ta óc phán đoán tối cao mà họ đã học được từ những bà mẹ của mình. Người mẹ là nhà giáo dục tâm linh vĩ đại nhất, mà cũng có thể là những tấm gương của tính biếng nhác, không trung thực và sự cẩu thả. Vì vậy tương lai của thế giới - hạnh phúc hay bất hạnh, hòa bình hay chiến tranh, khỏe mạnh hay đau ốm - tùy thuộc vào người mẹ. Bà là nhà giáo dục có ảnh hưởng nhất. -------------------- Mini chan ga ichiban
![]() ..::Mini::.. |
|
|
![]()
Bài viết
#27
|
|
![]() Rinkitori Tojimomi ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 125 Gia nhập vào: 7-February 07 Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ Thành viên thứ.: 3 ![]() |
26. tại sao phương pháp Thực Dưỡng khuyến nghị nên dùng cốc loại?
Tháng 6 năm 1982 Khi tôi đi thuyết giảng về lối ăn uống theo phương pháp Thực Dưỡng cho giáo viên, y tá, bác sĩ, sinh viên tại Đại học California (phân khoa dinh dưỡng của đại học Berkeley) thì có một câu hỏi được nêu lên: tại sao phương pháp Thực Dưỡng khuyến nghị nên dùng cốc loại nhiều như vậy? (Thật ra lúc ấy có hai câu hỏi, câu hỏi kia là làm sao cách ăn uống Thực Dưỡng có thể cung cấp đầy đủ B12?). Tôi trả lời rằng: xét đoán theo hình thể, 32 cái răng của ta gồm có 20 cái dùng cho hạt, 8 cái cho rau quả và 4 cái còn lại dùng cho thịt. Do đó ta nên thuận theo thiên nhiên mà dùng các loại thực phẩm theo tỷ lệ vừa kể. Còn một lý do nữa dựa trên quan điểm kinh tế và xã hội. Nói rõ hơn, ngũ cốc rẻ tiền nhất và dồi dào calo nhất, chỉ có ngũ cốc mới chống nổi nạn đói kém... Tuy nhiên lúc ấy tôi không có đủ lập luận vững chắc để dẫn chứng giá trị dinh dưỡng và trị liệu hữu hiệu của cốc loại. Không những tôi không đủ khả năng, mà theo tôi biết được, chưa có vị trưởng thượng nào của phương pháp Thực Dưỡng giải thích tại sao chúng ta cần ăn tỉ lệ ngũ cốc như vậy: 50-60% cho mỗi bữa ăn. Ngay cả Ohsawa cũng không nói về điều này. Thế rồi niềm vui bất chợt đến với tôi, khi cuốn “Các mục tiêu ẩm thực Mỹ” do ủy ban Thượng viện chuyên về dinh dưỡng xuất bản năm 1977, đã cho biết mục tiêu thứ nhất như sau: gia tăng tiêu dùng cácbon hyđrát để tiếp thu 55-60% năng lượng. Bản tường trình dẫn giải: trước nhất bữa ăn có năng lượng cácbon hyđrát phức hợp cao có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim. “Hầu hết các dân tộc hấp thụ 65%-85% năng lượng dưới hình thức cácbon hyđrát do cốc loại lứt và củ đem lại, đều ít bị tai biến tim mạch” (Kiến thức dinh dưỡng ngày nay của bác sỹ William E. và Sonja J. Connor xuất bản năm 1976). Sách viết tiếp: Trong bài tường trình, anh em bác sĩ Connor kết luận là các bữa ăn dồi dào cácbon hyđrát đều thích ứng cho cả người khoẻ lẫn người dư mỡ trong máu, miễn là cácbon hyđrát phải hầu như xuất phát từ cốc loại và rau củ. Việc sử dụng số lượng cao cácbon hyđrát phức hợp (ngũ cốc lứt) của người thượng cổ có căn bản lịch sử hẳn hoi, tiết kiệm được chi tiêu và tỏ ra ít gây bệnh, đặc biệt là bệnh có mỡ ở tim mạch. Anh em bác sĩ Connor cũng báo cáo rằng cácbon hyđrát phức hợp là cần thiết trong việc trị bệnh tiểu đường vì nó làm giảm nguy cơ bị bệnh xơ cứng động mạch và dư mỡ trong máu, là hai chứng liên quan đến bệnh tiểu đường. Nhờ cácbon hyđrát phức hợp mà mức cholestrol và chất béo trong cơ thể được hạ thấp. Theo dõi vài bệnh nhân tiểu đường họ nhận thấy lối ăn uống dồi dào cácbon hyđrát cũng đưa đến kết quả tốt, tức là khả năng dung nạp đường glucô được cải thiện. Có người thì mực insulin được quân bình. Một lý do nữa khiến ta phải tăng lượng cácbon hyđrát trong các bữa ăn là để thêm chất xơ. Bác sĩ Denis P. Burkitt, người biện hộ cho việc tận dụng chất xơ trong các bữa ăn đã quy định rằng: thêm món ăn có chất xơ, chất xơ thiên nhiên của chính món ấy thay vì chất xơ trộn thêm vào các sản phẩm tinh chế (chà xát) như bánh mì trắng chẳng hạn, sẽ làm giảm đi rõ rệt số bệnh ung thư và các bệnh khác, đặc biệt là bệnh về đường ruột. Sau cùng, gia tăng dùng cácbon hyđrát phức hợp có thể dễ dàng giúp cho cơ thể không tăng trọng lượng. Giáo sư Olaf Mickelson tại Đại học ở tiểu bang Michigan báo cáo trong General Foods World, tháng 7-1985: “Ngược lại với nhiều người nghĩ: dùng nhiều bánh mì là cách ăn làm tăng cân thì công trình nghiên cứu mới đây ở Viện của chúng tôi cho thấy rằng, các thanh niên trẻ và hơi nặng cân đã làm sụt cân bằng phương cách không đau đớn và không phải gắng sức nếu họ dùng 12 lát bánh mì hàng ngày. Kết quả là họ no trước khi họ tiếp thu hết liều lượng calo tiêu chuẩn thông thường. Các đối tượng này trước kia bị nhồi sọ là phải hạn chế ăn bánh mì. Chỉ trong 8 tuần lễ, trung bình mỗi đối tượng mất được 12,7 cân Anh (khoảng gần 6kg –ND)Thượng viện Mỹ đề nghị nên dùng nhiều cácbon hyđrát vì họ theo dõi các thống kê chứ không lý giải theo khoa học. Cuốn sách bán chạy nhất “Hãy sống lâu hơn” của Nathan Pritikins giải thích rất rõ ràng. Để nuôi sống cơ thể, mỗi ngày ta cần dùng một số lượng calo từ protein, chất béo và cácbon hyđrát. Ta không tùy thuộc quá nhiều vào protein (thịt cá, trứng, sữa...) vì nó thải ra chất độc khi thức ăn nằm quá lâu trong ruột. Chất kế tiếp phải được loại trừ ngay là cácbon hyđrát (chất bột tinh chế) vì nó chứa đường đơn thuần nên gây hậu quả độc hại nếu ăn nhiều (tìm đọc phần Đường trắng - chất độc trắng, trong Khoa học ăn chay, NXB Khoa học Kỹ Thuật, Hà Nội, 1993 - ND). Cũng vì lý do này mà các chuyên viên nghiên cứu dinh dưỡng đã yêu cầu dùng chất đường từ việc ăn ngũ cốc lứt gọi là đường kép hay còn gọi là carbonhydrat phức hợp vì nó ngấm vào máu từ từ mà không gây đột biến và không gây hại lá lách như khi ta ăn ngũ cốc xát trắng, chất đường đơn trong ngũ cốc xát trắng ngấm vào máu nhanh gây hại lá lách. Vì lý do này ta giải thích dễ dàng lý do vì sao có nhiều người ăn chay theo lối phi Thực Dưỡng vẫn bị các bệnh như đái đường, nhức mỏi... Còn chất béo ta nên tìm từ ngũ cốc lứt như món muối vừng, bơ vừng,... và ngay trong hạt gạo lứt cũng có chất dầu cám nằm ở lớp vỏ cám... Thế rồi học thuyết của Ancel Keys xuất hiện: qua 15 nghiên cứu các trường hợp của 281 thương gia, rằng mức cholesterol và huyết áp cao là nguyên nhân của tử vong vì bệnh tật. Nghiên cứu của A. Keys về sau được mở rộng hơn, với 12.000 người thuộc 7 quốc gia. Một lần nữa, bác sĩ Keys lại nhận xét rằng, các chất béo trong máu có liên quan đến nhiều trường hợp bệnh tim cũng như mức cholesterol. Sau đó các khoa học gia nghiên cứu mấy sắc dân sơ khai như là dân Bantus, dân Tân Ghinê và dân Ecuador. Kết quả luôn như sau: mức chất béo và cholesterol trong cơ thể thấp có nghĩa là nguy cơ bệnh tim cũng thấp. Hơn nữa, để xác minh rằng thực trạng này không phải do sức đề kháng thiên nhiên của các giống dân ấy, bác sĩ Keys tìm hiểu cư dân Nhật Bản ở 3 nơi khác nhau, cũng như trong cuốn “Hãy sống lâu hơn” có viết: ở Nhật, dân chúng ít bị bệnh tim. Trái lại rất nhiều người Nhật ở Hawaii bị bệnh tim. Trong khi nhóm ở Los Angeles thì rõ ràng có tỷ lệ bệnh nhân tim mạch ngang hàng với tỷ lệ bệnh nhân về tim mạch của Mỹ. Nhờ nghiên cứu này mà màn bí mật về sức đề kháng của dân Nhật được bật mí. Và chính món ăn là nguyên nhân bệnh tim. Suốt 20 năm (50-70), nhiều phòng thí nghiệm được chỉ thị tìm cho ra manh mối về bệnh tim của súc vật. Đến năm 1959, một số khỉ được nuôi với các thức ăn gần giống như của người Mỹ dùng hàng ngày - khoảng 42% là chất béo và khoảng 30gr cholesterol. Kết luận cho thấy là các con khỉ này đều bị chứng rối loạn tim. Từ đấy, việc thử nghiệm được thực hiện nhiều lần với các loại thú khác; nhiều chất béo, nhiều cholesterol gây ra bệnh tim. Có một thời người ta nghĩ rằng chất béo không no có ích lợi cho sức khoẻ của tim, nhưng các cuộc thí nghiệm cho thấy các chất ấy không tốt hơn các chất béo no (Friedman. M. et al., JAMA 193: 882, 1965; Bierenbaum, M et al. ; Circulation 42: 943, 1970). Thế thì việc nghiên cứu về bệnh tim đã loại bỏ các thức ăn quá béo, chỉ còn phương cách duy nhất đem năng lượng cho cơ thể là ăn nhiều cácbon hyđrát. Tuy nhiên thức ăn dồi dào cácbon hyđrát đã từng bị cấm đối với bệnh tiểu đường do tin tưởng rằng chất này gây tình trạng hôn mê cho bệnh nhân, mà thực ra triệu chứng này chỉ xảy ra khi họ lạm dụng đường. Mỉa mai thay bữa ăn nhiều cácbon hyđrát được khuyến cáo áp dụng không chỉ cho cho bệnh tim mà còn cả bệnh tiểu đường. I.M. Rabinowitch vào năm 1935, Wolff và Priess năm 1956 và W.E. Connor năm 1963 đã nghiên cứu cách trị liệu tiểu đường bằng thực phẩm ít béo. Họ nhận thấy rằng bệnh trạng được cải thiện hơn hẳn với các lối ăn khác dành cho bệnh nhân tiểu đường. Trên thực tế, điều quan trọng mà các khoa học gia ấy đã hiểu được là có một sự khác biệt rõ rệt giữa cácbon hyđrát phức hợp (ngũ cốc lứt) và cácbon hyđrát đơn chất (ngũ cốc xát trắng). Cácbon hyđrát đơn chất trong bữa ăn biến thành chất béo, tăng chất béo trong máu và gây ra bệnh tiểu đường. Trái lại cácbon hyđrát phức hợp có tác dụng ngược lại. Theo Pritikin, cácbon hyđrát đơn chất tăng lượng béo và cholesterol, vậy thì cái gì không tốt lành cho tiểu đường cũng không hay cho bệnh tim. Ông viết: kinh nghiệm về các bữa ăn ít béo và việc không có bệnh tiểu đường trong các bộ tộc tiền sử đưa đến sự phòng ngừa chứng bệnh ấy trong nhiều trường hợp bằng cách ăn ít chất béo và nhiều cácbon hyđrát. Dĩ nhiên, cácbon hyđrát này không có nghĩa là cácbon hyđrát đơn chất như đường, mật ong, mật mía... Theo quan điểm Thực Dưỡng, thực phẩm là nền tảng của đời sống và đời sống là biểu tượng của thức ăn. Do đó thuyết tiến hóa có thể được luận giải trên quan điểm Thực Dưỡng. Khoảng 4 tỷ năm trước đây, trái đất bị nước bao phủ (chất vô cơ), rồi một thành phần được biến thành (khoảng 3,5 tỷ năm trước) cácbon hyđrát, chất béo hay protein (chất hữu cơ). Từ 3 tỷ năm, vi khuẩn xuất hiện trong nước; có thể sấm sét là nguyên nhân gây ra biến chuyển từ chất hữu cơ thành vi khuẩn. Những vi khuẩn này là các sinh vật đầu tiên trên mặt đất (đời sống thảo mộc). Từ những loại thảo mộc đơn sơ này, loài phiêu sinh vật (planton) phát sinh ra. Một số phiêu sinh vật này năng động (dương) hơn, vì thời tiết lạnh hơn (âm). Trong khí hậu lạnh loài thảo mộc có âm tính phải chết và loài có dương tính tồn tại (âm dương hút nhau). Do đó sinh thể nào được nuôi dưỡng bằng phiêu sinh vật (những sinh vật trôi nổi ở biển, sông hồ) có nhiều dương tính đương nhiên trở nên dương thịnh. Khi các sinh vật thảo mộc trở nên dương thì biến dạng thành động vật. Sự kiện này xảy ra 1,5 tỷ năm. Khoảng 1 tỷ năm về trước, bọt biển xuất hiện. Đời sống thú vật và các loài sò ốc xuất hiện 500 triệu năm về trước và cách đây 400 triệu năm các loài cá phát sinh. Khi lục địa xuất hiện cách đây 300 triệu năm, cây cối bắt đầu mọc. Xuất hiện các loài lưỡng cư, sống được trên đất và dưới nước. Chừng 250 triệu năm về trước có các loài dương xỉ và rêu; loài bò sát phát sinh rồi đến côn trùng, cách nay khoảng 200 triệu năm; khí hậu ấm áp đã khiến khủng long và dương xỉ xuất hiện. Rồi khí hậu trở lại lạnh lẽo, dương xỉ chết dần mòn và được thay thế bởi loại thực vật hạt trần. Cách đây 150 triệu năm, các loài thú sống nhờ mấy thứ cây ấy như chim và động vật có vú xuất hiện. Cách đây 100 triệu năm, thực vật, ngũ cốc xuất hiện tạo thành thức ăn dương cho động vật có vú. Động vật có vú có dương tính thịnh hơn ăn thịt động vật khác. Vậy có thú ăn thịt xuất hiện. Một vài loại thú khác sống trên cây, tạo nên nguồn cội loại dã nhân. Cách nay 75 triệu năm, vì cây cối thưa mỏng đi nên các loài dã nhân phải rời cây cối, từ đó loài khỉ không đuôi và khỉ có đuôi xuất hiện (dù thực phẩm của chúng vẫn ở trên cây nhưng chúng có khả năng sống cả dưới đất hay trên cây) cách đây 50 triệu năm. Cỏ bắt đầu mọc từ khoảng 25 triệu năm nay. Loài khỉ không đuôi tìm được cốc loại để ăn. Chúng khởi sự đứng trên 2 chân cách đây 10 triệu năm. Theo tôi, nhờ ăn hạt mà loài khỉ đứng lên được và phát triển bộ óc. Nhờ đứng được, 2 tay mới rảnh rang để sử dụng vào việc thủ công. Đây là nguồn cội của người tiền sử (homo-sapiens). Họ tìm ra lửa cách đây một triệu năm. Đây là giống người khôn ngoan đầu tiên. Phải qua hàng trăm ngàn năm, người tiền sử mới khai triển nghề nông. Quyển bách khoa Britanica nói rằng: Xuyên suốt hàng trăm ngàn năm qua thời kỳ đồ đá, giống người tiền sử sống bằng nguồn lợi thiên nhiên, sử dụng cả thực vật lẫn động vật. Loài người khác biệt loài thú ở chỗ họ có thể lực yếu kém hơn nhưng lại có dụng cụ và vũ khí do trí óc phát triển tạo ra - theo ý tôi, đây là kết quả của sự ăn cốc loại. Cuốn Britanica viết tiếp: Vào giai đoạn cuối cùng của thời kỳ băng hà, băng tuyết tan đi, đưa đến một khí hậu khác biệt khoảng 10.000 năm trước công nguyên. Sự thay đổi môi sinh gây ra một thử thách khiến loài người phải tìm ra cách kiểm soát và khai thác môi trường ấy, nghĩa là phải trồng trọt và chăn nuôi súc vật. Tiến được bước này, con người không còn phải theo đuổi các loài thú di cư tùy mùa hay truy tìm cả chỗ cốc loại mọc, mà tự sản xuất lấy thực phẩm quanh vùng họ ở. Việc định cư tùy thuộc vào sự cung và cầu của thực phẩm do nông nghiệp và chăn nuôi tiếp trợ. Từ các thôn ấp đầu tiên, người ta phát triển xây cất thị xã rồi sau tiến đến nền văn minh cao hơn: các xứ Babylon, Ai Cập, Hy Lạp và La Mã đều phát triển từ việc canh tác lúa mạch, lúa mì và hạt kê. Nền văn hóa cổ xưa của ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản xuất phát từ nông nghiệp trồng lúa gạo. Các giống dân cổ xưa của nền văn minh Inca, Maya và Aztec ở Tân Thế Giới đều dùng lúa mì, ngô, trước khi Christoph Columbus tìm ra châu Mỹ. Do đó có vài nền văn minh sáng tạo ra các chuyện thần thoại tôn sùng cốc loại như thần linh. Có xã hội làm ra bộ luật về thực phẩm căn cứ trên cốc loại. Đạo Mormon dạy rằng tất cả cốc loại được chỉ định nuôi người và thú vật, chăm lo sự sống chẳng những của người mà còn của loài thú ở ngoài đồng, trên trời và của tất cả thú hoang hoặc chạy bằng chân hoặc loài bò sát (chương 25, cuốn Một kỳ công và một kỳ quan, Le Grand Richards, Công ty sách Deseret, 1969). Theo cuốn sách nghi lễ “Gegu” viết vào năm 804 trước CN thì Hoàng đế của Nhật Bản, hiệu là Yuryaku dựng nên lăng tẩm Ise (năm 457 trước CN) để tôn thờ nữ thần Amaterasu, vị nữ thần cao nhất của Thần đạo Nhật Bản . Một đêm nọ, Hoàng đế nằm mơ thấy nữ thần nói với ông rằng: “Tôi rất lấy làm cảm kích việc ông ban tặng tôi, nhưng ông lại phạm lỗi lầm nghiêm trọng vì đã bỏ phế Toyoke No Okami, thần của lúa gạo mà tôi mến mộ nhất. Xin ông hãy cho dời ngài đến đây ngay.” Hoàng đế ngạc nhiên, bèn cho xây cất đền Toyoke No Okami liền ngay năm sau. Đền này được gọi là Gegu (đền dành cho du khách) và đền thờ Amaterasu được gọi là Naigu (đền dành cho bản quốc). Huyền sử Nhật Bản cũng có truyền rằng Amaterasu Ohmikami bảo người Nhật phải dùng gạo như thức ăn chủ yếu. Tuyên cáo của vị nữ thần này là một trong những giáo lệnh quan trọng nhất của xứ Phù tang. Tuy nhiên, điều răn này bị mọi người bỏ quên, ngoại trừ vài người trong đó có Ohsawa. Tóm lại, phương pháp Thực Dưỡng yêu cầu nên dùng cốc loại như thực phẩm chính (50-60% của thực phẩm dùng hàng ngày) vì các lý do sau đây: 1. Con người tiến hóa từ thể đơn bào đến con người khôn ngoan (homo sapiens) nhờ sự biến đổi thức ăn. Đến giai đoạn hiện nay, thực phẩm chính của con người là cốc loại vì tỷ lệ răng 5/8 dành cho cốc loại, 1/4 cho rau quả và chỉ có 1/8 dùng để ăn thịt. 2. Tỷ lệ Kali/Natri của cốc loại rất gần với tỷ lệ của tế bào thân thể (10K/1Na). Do đó cốc loại có phẩm chất lý tưởng để vun bồi và bảo trì cơ thể. 3. Cácbon hyđrát chứa trong cốc loại lứt là cácbon hyđrát phức hợp, nên biến thành đường glucô rất chậm. Do đó ăn cốc loại không gây rối loạn chức năng biến dưỡng đường. 4. Bữa ăn quá nhiều protein (vượt quá 16% calo cần dùng cho cơ thể) gây ảnh hưởng tiêu cực cho công năng khoáng chất - chủ yếu là mất canxi - và do đó làm chua máu và thể dịch. Vì vậy protein không thể có vai trò dinh dưỡng chính yếu được. Theo kết quả nghiên cứu mới đây, các chất béo dù no hay không no cũng gây ra bệnh xơ cứng động mạch, từ đó dẫn đến bệnh tim mạch, tiểu đường. Dù chất béo có cho ta năng lượng nhiều nhất, nhưng nó không thể là món ăn chủ yếu được. 5. Trên quan điểm dinh dưỡng, cốc loại lứt, các loại rau quả có một hạt hầu hết đều chứa cácbon hyđrát, chút ít chất béo (lipit), protein, khoáng chất và các vitamin. Nhiều nhà dinh dưỡng học khuyên ta nên dùng cácbon hyđrát phức hợp vì nó là món ăn cần thiết nhất cho loài người. 6. Trên quan điểm kinh tế, cốc loại là nguồn dinh dưỡng và có lượng calo kinh tế nhất. Cốc loại có dạngđặc cứng và khô ráo nên dễ bảo quản khỏi hư thối. 7. Cốc loại được trồng khắp mọi nơi trên thế giới, chỉ có cốc loại mới đủ nuôi sống hết loài người. Nên dùng luôn lớp vỏ cám (lứt). Cốc loại cho cơ thể một liều lượng calo nhiều nhất so với các loại thức ăn khác, tính trên diện tích đất. Độ chừng 20-30 người có thể sống trên một mẫu đất nếu họ dùng cốc loại lứt. Ngược lại một con bò cần 10-15 mẫu đất trong một năm để ăn cỏ và chỉ cho có 300-400 pound thịt (khoảng 150-200 kg). Nếu mỗi người dùng ít nhất 250 pound thịt mỗi năm thì rõ ràng dùng thịt như món ăn chính là vấn đề nan giải vì không đủ đất để nuôi sống cả một thế giới gồm toàn loài ăn thịt! Hậu quả phải đến là xung đột. Quá khứ đã chứng minh rằng chiến tranh là để chiếm đất và tương lai của chúng ta cũng không sáng sủa gì. Chiến tranh không tránh khỏi trên hành tinh này vì thiếu ăn, trừ khi ta dùng cốc loại như thức ăn chính (khoảng 50% thực phẩm ta dùng phải là cốc loại và rau quả). Từ ngữ Trung Hoa “wa” (hòa) có nghĩa là “hòa bình” hay hòa hợp. Đó là sự phối hợp của hai từ “ ” (cây sinh ra cốc loại) và “ ” (khẩu,- miệng). Vậy từ này gợi ý: ăn cốc loại thì có sự hòa hợp trong cơ thể, có sự hòa bình trên thế giới. Hiện nay, có nhiều phong trào đòi hòa bình (1982). Tuy nhiên những ai không sống bằng cốc loại lứt mà lại ủng hộ phong trào này thì rõ ràng chỉ vì tình cảm thiên lệch mà hành động. 8. Cốc loại đặc biệt là lúa mì, lúa gạo, bắp ngô... từng là thức ăn căn bản trải qua bao thế kỷ. Giá trị dinh dưỡng và hương vị của nó đã được hằng triệu người thử nghiệm và được xác nhận là tuyệt hảo. 9. Theo triết học phương Đông, dương tùy thuộc âm và dương thu hút âm. Do đó loài thú có dương tính (kể cả con người) phải sống nhờ loài thảo mộc (âm) mà trong loài này cốc loại lại có đặc tính duy nhất: đặc cứng, khô, dồi dào natri. Cốc loại là món ăn tốt nhất trong vương quốc rau quả, giúp cho con người được tráng kiện (dương). Đấy là lý do vững vàng nhất, khuyên con người dùng cốc loại. 10. Sau cùng, do kinh nghiệm của nhiều người, cốc loại dùng như món ăn chính yếu đã thoả mãn được dạ dày loài người và vị giác của con người. Cốc loại chắc chắn cải thiện được sức khoẻ, không biệt lệ, nếu không bị chà xát mất vỏ cám, được nấu kỹ và ăn điều độ. Theo đông y, ngũ cốc sinh tinh. Tinh là thành phần quí nhất trong thể vật lý của con người. Theo quan niệm cổ, con người có 3 thứ quí nhất: Tinh - Khí - Thần. Vì các lý do này, chúng tôi xin đề nghị hãy dùng cốc loại như thức ăn chính yếu. -------------------- Mini chan ga ichiban
![]() ..::Mini::.. |
|
|
![]()
Bài viết
#28
|
|
Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 423 Gia nhập vào: 13-April 07 Từ: HCMC Thành viên thứ.: 14 ![]() |
Chị Trâm ơi,
E định scan từ từ những bài trong cuốn sách "kính Vạn Hoa" gửi cho một số bạn bè, và đặc biệt là e gái e đọc. Nhưng chị và mọi người đã tải lên hết trên trang web này thì thật là tuyệt vời. E chỉ cần gửi địa chỉ web thôi, thật là nhanh và nhiều!Ôi! E cảm kích những nhân vật làm nên công trình này quá! |
|
|
![]()
Bài viết
#29
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,325 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
27. nền Kinh tế nước Mỹ
Tháng 8 năm 1982 Tháng 4-1982, tôi nghe báo rằng tập đoàn AM quốc tế (Adressograph Multigraph Corporation), một trong những công ty máy văn phòng lớn ở Mỹ thành lập đã 59 năm, vừa tuyên bố phá sản. Hai năm trước chúng tôi đã mua một máy xếp chữ do họ sản xuất và vẫn đang trả góp. Sự phá sản của họ khiến nhiều thương gia ngạc nhiên. Nguyên nhân phá sản là nợ quá nhiều (465 triệu USD năm 1982) và sa sút trong kinh doanh. Năm 1981 lỗ 245 triệu USD. Một tháng sau khi AM tuyên bố phá sản, hãng hàng không Braniff cũng làm thế. Nguyên nhân là tỉ suất vay vốn quá cao, khiến những khoản vay thành quá đắt để có thể mua những máy bay mới. Công ty Máy nông nghiệp quốc tế, International Havester, lỗ 393 triệu USD năm 1981 và dự đoán năm 1982 lỗ 518 triệu USD. Họ đang yêu cầu trợ giúp tài chính từ vài công ty Nhật Bản. Sức bán thấp xuống thảm hại bởi nông dân Mỹ đang hoãn mua máy nông cụ nông trang vì lãi suất vay vốn cao. Ngay cả RCA, một trong những thương hiệu lớn nhất trong sản xuất đồ điện tử và thiết bị, cũng đang ở trong hình ảnh tồi tệ với khoản nợ 3 tỉ USD. Họ đang cố bán công ty con Hertz Rent-A-Car, cho một công ty săm lốp với giá 700 triệu USD để giảm nợ. Còn hãng A&P, một tập đoàn siêu thị lớn nhất nước đang giảm số cửa hàng từ 3.600 xuống còn 1.200. Hiệp hội quỹ tín dụng và cho vay cơ sở Oakland có tin đồn phá sản nên các khách hàng đua nhau rút tiền. Trong một ngày 25 triệu USD bị rút khỏi 80 chi nhánh ở Oakland. Cuối cùng, Chính phủ liên bang và Hãng bảo hiểm tiết kiệm và cho vay đã phải nắm quyền điều khiển để tránh phá sản. Hãng Dun & Bradstreet tường trình rằng năm trước có 17.043 vụ phá sản kinh doanh, chỉ đứng sau năm 1961 với số vụ lên tới 17.075. Năm nay còn tồi tệ hơn. Trong 7 tuần đầu đã có 3.065 vụ, tăng 50% với năm ngoái. Các triệu chứng suy yếu của nền kinh tế Mỹ không chỉ là những vụ phá sản, mà còn là việc kinh doanh chậm chạp, đặc biệt trong công nghiệp chế tạo ô tô và nhà ở. Tổng giám đốc điều hành hãng General Motors nói: “Nếu nền kinh tế không xoay chuyển cuối năm nay, thì đó sẽ là khởi đầu của việc kết thúc đối với ngành công nghiệp xe hơi Mỹ” (Thời báo, 8-3-1982). Nguyên nhân khiến kinh tế Mỹ tồi đi là do thất nghiệp gia tăng. Tờ Thời báo ngày 17-5-1982 tường thuật: “Thất nghiệp đã thay thế lạm phát thành mối quan tâm số 1 của dân Mỹ. Theo một điều tra của Viện Gallup tiến hành tháng trước, 44% tin rằng thất nghiệp là vấn đề quan trọng nhấtMỹ đang đối mặt”. Thất nghiệp giờ là vấn đề rất nghiêm trọng, đạt tới kỷ lục cao 9,4% vào tháng 5. Ngày 15-6, một tờ báo ở Wisconsin đưa tin rằng các vùng Michigan, Ohio, Wisconsin, Indiana, Alabama và Washington đã vượt quá 14% thất nghiệp. Ngay cả California cũng là 9,7%. Tại Michigan và Ohio, các nỗ lực thu hút ngành công nghiệp mới và giữ công nhân đang bị cạn kiệt vì thiếu vốn. Điều này chủ yếu tại lãi suất vay vốn cao. Như đã liệt kê ở trên, một trong những lý do chính gây các vụ phá sản là lãi suất cho vay cao và điều đó ứng với tỉ lệ thất nghiệp cao. Tại sao lãi suất cho vay cao thế? Mỗi nơi tổng thống Reagan tới, người ta đều hỏi ông câu đó. Thậm chí ông bị các sinh viên tại Trường thánh Peter ở Geneva, Illinois hỏi các câu đó. Nhưng những sinh viên đó bị rối vì câu trả lời của ông ta, theo tờ “Thời báo”, ngày 3 tháng 5, 1982. Với tôi không chỉ những sinh viên trẻ đó bị rối bởi giải thích của Reagan mà hầu như bất kỳ ai - từ những người làm kinh doanh tới những chủ gia đình đang muốn mua nhà riêng. Khi lãi suất cho vay cao, các thương gia không thể mượn tiền ngân hàng và các gia đình không thể mua một ngôi nhà. Các vụ làm ăn bị gác lại, nhà cửa không bán được, xe mới không xuất ra. Hậu quả là nhiều vụ phá sản, kinh doanh chậm chạp trong các ngành xẻ gỗ, xe hơi và nhiều ngành nữa. Lãi suất cho vay là giá cả trong việc vay mượn tiền và được quyết định bởi việc cung - cầu đối với tiền tệ. Nếu không đủ tiền lưu hành, lãi suất tăng lên. Bộ phận kiểm soát lãi suất tiền tệ là Cục Dự trữ liên bang. Kể từ khi Cục Dự trữ kiềm chế lạm phát, họ phát hành ít tiền đi. Đây là lý do lãi suất cho vay tăng. Do vậy, cách duy nhất để hạ lãi suất cho vay là giảm mặt cầu. ở Mỹ ảnh hưởng lớn nhất lên cán cân tiền tệ gây nên bởi Chính phủ liên bang. Chính phủ vay từ ngân hàng Dự trữ liên bang để cân bằng thâm hụt ngân sách của họ, khoảng 100 tỉ USD năm 1983 (10% của tổng số thuế). Từ khi Chính phủ yêu cầu quá nhiều tiền, những quỹ cho kinh doanh hay cá nhân vay bị sút giảm. Do vậy lãi suất cho vay tăng lên. Tai sao Chính phủ yêu cầu quá nhiều tiền? Bởi vì ngân sách quân đội của nó quá lớn để thuế liên bang có thể trang trải (ngân sách Chính phủ cho chi tiêu quân sự năm 1983 là 215 tỉ USD). Cách duy nhất để giải quyết tình hình kinh tế trong nước lúc này có lẽ sẽ là cắt chi tiêu quân sự 100 tỉ USD, để Chính phủ không cần mượn tiền từ Cục Dự trữ liên bang. Đây là bước đầu để kinh tế hồi phục. Nhật Bản là một minh chứng về điều này. Sau khi đầu hàng lực lượng đồng minh vào cuối thế chiến II, Nhật buộc phải thay đổi Hiến pháp rằng mình sẽ không có lực lượng quân đội trừ một lượng vệ binh quốc gia nhỏ. Từ đó Nhật tận hưởng ngân sách quân sự thấp, các khoản thuế cũng thấp. Một trong những lý do chính khiến Nhật Bản phục hồi kinh tế sau chiến tranh nhanh vậy là nhờ thuế thấp. Với thuế thấp, người Nhật có thể tiết kiệm và đầu tư từ thu nhập của họ nhiều hơn so với người Mỹ. Bây giờ Chính phủ Mỹ đang yêu cầu Nhật Bản tiêu nhiều tiền hơn cho lực lượng quân đội và vũ khí. Kỳ cục thay, điều này ngược lại Hiến pháp của Nhật Bản, vốn từng bị Mỹ buộc phải tạo lập. Thật nguy hiểm và vô dụng khi chi tiêu quá nhiều vào vũ khí quân sự. Vũ khí ngày nay, đặc biệt là vũ khí nguyên tử, quá mạnh tới nỗi chẳng cần nhiều để hủy diệt. Một quả bom khinh khí sẽ hủy diệt nhiều gấp một trăm nghìn lần so với quả bom nguyên tử từng phá hủy Hiroshima và Nagasaki và đã giết chết 35.000 người vào 37 năm về trước. Nichidatsu Fuji, một nhà sư Nhật nổi tiếng, người đã dẫn đầu một cuộc diễu hành hòa bình từ Nhật Bản tới Mỹ, đã viết trong “Thời khắc đã tới” rằng hiện nay cả Nga và Mỹ sở hữu số tên lửa và đầu đạn hạt nhân tương đương một triệu lần loại đã dùng ở Hiroshima và Nagasaki. Do vậy, 350 tỉ người sẽ bị giết trong trường hợp nổ ra chiến tranh hạt nhân . Có nghĩa là lượng người gấp 50 lần dân số toàn thế giới sẽ bị giết chết trong vòng một giây nếu Mỹ và Nga bắt đầu tiến hành chiến tranh hạt nhân. Trong thế chiến II đã phải mất 6 năm để giết gần 50 triệu lính và dân thường. Sẽ chỉ cần một giây để giết 50 lần tổng dân số thế giới trong cuộc chiến tranh hạt nhân. Hiểu biết của tôi là Mỹ và Nga cùng bảo vệ đất đai của họ như là thánh địa, nơi các vũ khí nguyên tử chiến lược không được dùng. Họ lập mưu để có chiến tranh hạt nhân chỉ trong lãnh thổ những nước nhỏ hơn và yếu hơn hay nước lân cận. Tuy vậy, không chỉ Mỹ và Nga đang sở hữu sức mạnh nguyên tử. Theo IAEA (Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế) thì có khoảng 340 lò phản ứng nghiên cứu và 475 lò sản xuất nguyên tử đang vận hành hay xây dựng trong tất cả 46 nước (theo Thời báo, 22-6-1981). Trên thực tế, có vẻ rằng bất kỳ nước nào cũng có thể sản xuất bom hạt nhân nếu họ thực sự muốn. Tình hình còn tồi tệ hơn, nếu những bí quyết sản xuất nguyên tử lọt vào những tổ chức khủng bố quốc tế. Như nhà vật lý học Theodore Taylor - một kỹ sư chế tạo bom nguyên tử, một thời từng lo sợ. Không ai có thể phủ nhận rằng, đôi khi một kẻ khủng bố hay một Hingkley khác có thể kích nổ một quả bom A tự tạo và khởi động một phản ứng dây chuyền dẫn tới thế chiến III. Nỗi lo rằng người Âu có thể bị đốt cháy trong một cuộc chiến giữa hai siêu cường (Mỹ và Nga) được thể hiện trong cuộc tuần hành vì hòa bình năm 1981 ở Born. Khoảng 7 tháng sau, ngày 12-5-1982, gần nửa triệu người từ khắp thế giới đã phản đối vũ khí hạt nhân tại cuộc nhóm họp của lực lượng vũ trang ở quảng trường trung tâm Nữu Ước. Cuộc biểu tình này là cuộc quần tụ lớn nhất tại Nữu Ước trong một ngày ở một địa điểm và đã được dàn xếp tốt đẹp và bình an. Đã không có cảm giác về sự sợ hãi từ phía những người biểu tình như đã hiện hữu ở Born. Tâm thức người ta có vẻ đang cải thiện. Tuy vậy, tôi có một ý nghĩ giống như Thị trưởng Nữu Ước Edward Kock bày tỏ: “Thật kinh khủng khi cố gắng gây ảnh hưởng lên lương tâm của thế giới. Thật tiếc là họ không có một cuộc biểu tình tương tự ở Matxcơva” (Thời báo, 21-6-1982). Mỹ và Nga, những nước quân sự lớn nhất thế giới, chi tiêu lần lượt 134 tỉ và 118 tỉ USD năm 1981..Nếu Mỹ và Nga đạt được thoả thuận ngưng chạy đua vũ trang thì sự kiện này sẽ gây ảnh hưởng quan trọng về chính trị lẫn kinh tế trên toàn thế giới. Thật lý tưởng rằng, mọi quốc gia trên thế giới giải giáp vũ khí và binh lính. Liệu đây là một giấc mơ ngày hay một ý tưởng trẻ con và không tưởng khi nghĩ tới một thế giới như vậy? Tôi thường nghĩ thế, nhưng bây giờ tôi nghĩ khác. Chúng ta nên hỏi tại sao chúng ta có binh lính và vũ khí? Chúng ta nên học cách loại trừ chúng như Nhật đã làm sau khi đầu hàng đồng minh. Không học như vậy thì chỉ những cuộc biểu tình giải giáp đầy cảm tính sẽ không ngăn được thế chiến III, mà hình như đã đang bắt đầu nó. Theo ý kiến tôi, một trong những lý do khiến nhiều chính phủ chuẩn bị vũ khí (nguyên tử hạt nhân) là lo sợ thiếu hụt năng lượng. Đời sống chúng ta phụ thuộc nặng nề vào dầu hoặc các sản phẩm dầu lửa. Mọi nước đều phụ thuộc vào nhập khẩu dầu, trừ một số ít nước. Mục đích chính khi tàng trữ vũ khí quân sự là vì dầu lửa. Do vậy, để tránh phát triển quá nhiều vũ khí, chúng ta phải thoát khỏi việc phụ thuộc vào dầu lửa. Có hai cách để làm điều này. Một là học cách dùng ít đi những sản phẩm từ dầu thô như là túi nhựa, vật liệu tổng hợp... Cách khác là phát triển năng lượng khác như mặt trời, gió, sóng biển... Vô vàn năng lượng đang tồn tại trong toàn vũ trụ. Chúng ta phải tìm loại năng lượng nguyên tử không phóng xạ âm tính. Chúng ta phải tìm ra nguồn năng lượng. Đâu là nguồn năng lượng kiến tạo nên sự xoay chuyển của quả đất quanh chính nó cũng như quanh mặt trời? Năng lượng mặt trời được tạo ra như thế nào? Chính trong ta cũng có nhiều năng lượng. Làm sao nhịp tim đập được? Cơ chế gì khiến nhịp tim đập từ trước khi chúng ta ra đời tới khi chết mà không phút nào nghỉ ngơi? Cái gì khiến đại dương vỗ sóng vốn tiềm tàng năng lực ghê gớm thế? Chỉ khi ta tìm được hay sử dụng được những nguồn năng lượng khác mà vừa thuận về giá cả và số lượng đối với số dân 6 tỉ người của thế giới, thì mới vượt được cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện tại. Các Chính phủ nên tiêu tiền vào việc nghiên cứu những nguồn năng lượng khác thay vì chi tiêu cho vũ khí và chuẩn bị chiến tranh. Một lý do khác khi chuẩn bị chiến tranh là nỗi sợ đói. Trong chính sách thế giới ngày nay, thực phẩm là một vũ khí. Các Chính phủ trang bị vũ khí để bảo đảm lương thực. Điều này chỉ đúng cho những nước mà người ta phụ thuộc vào thực phẩm động vật. Lý do cho điều này là trên thế giới không đủ đất cho đồng cỏ để sản xuất thực phẩm động vật (trừ cá) để đáp ứng chỉ tiêu nhiệt lượng (calo) và đạm (protein) cho toàn bộ dân số thế giới. Một con bò đòi hỏi 10 sào đất (4ha) và cung cấp 20 kg thịt vốn chỉ đáp ứng được 1 người/năm. Có cách khác, nếu ta canh tác cốc loại thì 10 sào sản sinh khoảng 2.200 kg cốc loại, vốn có thể đáp ứng nhu cầu calo cho khoảng 20 người/năm. Do vậy, khi cốc loại là thức ăn chính thì sẽ không bị thiếu đất để sản xuất mà sẽ đủ thực phẩm cho cả trái đất. Phụ thuộc vào thực phẩm động vật tạo ra thiếu đất đai và kéo theo là thiếu thực phẩm cho toàn cầu. Do vậy, các nước mới xảy ra chiến tranh để bành trướng đất đai. Vì điều này, chuẩn bị cho chiến tranh và tàng trữ vũ khí là không thể tránh được. Để có một nền kinh tế bảo đảm, chúng ta phải biết rằng ngũ cốc là thực phẩm căn bản tốt nhất. Tình hình kinh tế nước Mỹ không mấy sáng sủa. Chừng nào Chính phủ còn chi tiêu nhiều vào vũ trang, thì thuế còn bị đánh cao và lãi suất cho vay và tỷ lệ lạm phát còn cao. Hơn nữa, sự khan hiếm thực phẩm, nạn bệnh tật và tỷ lệ tội phạm cao sẽ đe doạ đời sống. Điều quan trọng là ta tự giữ mình lành mạnh về cơ thể cũng như tinh thần. Đối với sức khỏe của cơ thể, tôi thấy rằng chế độ ăn Thực Dưỡng là tốt nhất, bao gồm cốc loại, rau củ, thực phẩm lứt và không hóa chất. Đây là một chế độ lành mạnh, kinh tế và mang lại hòa bình. Các nhà lãnh đạo của mọi quốc gia nên xem xét, quán triệt chế độ dinh dưỡng này. Nếu có mười nghìn quan chứcChính phủ khắp thế giới thực hành phương pháp này thì chiến tranh giữa các nước sẽ không còn nữa. Lý do là một chế độ ăn uống Thực Dưỡng sẽ loại trừ thái độ, tinh thần hung hãn và lo sợ, nên nhiều căn nguyên của chiến tranh sẽ bị tiêu biến. Tuy vậy, thật khó trông mong có nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới áp dụng phương pháp này. Do vậy, chẳng thể sớm hy vọng có hòa bình thế giới. Chiến tranh hạt nhân có thể nổ ra. Những ai sống sót qua cuộc chiến tranh này là những người biết những nguyên lý sức khỏe và có thể thực hành chúng trong cuộc sống hàng ngày. Phương pháp ăn uống dưỡng sinh (Thực Dưỡng) đã chứng tỏ lực sinh tồn và chữa lành của nó trong chiến tranh nguyên tử ở ngay bệnh viện Thánh Francis ở Nagasaki. Người ta nên bắt đầu nhìn lại cách ăn uống của mình ngay từ bây giờ không chỉ vì khả năng bị nhồi máu cơ tim mà còn vì khả năng bị tấn công hạt nhân. Đối với sự lành mạnh về tinh thần, tôi khuyên sống theo nguyên lý của Lão Tử, đó là sự điều độ. Sự sụp đổ của Hãng hàng không Braniff là kết cục của một chương trình mở rộng đầy tham vọng vào cuối những năm 70. Họ đã không điều hành công ty với sự điều độ. Đây là nguyên nhân cho nhiều vụ phá sản khác. Không chỉ đối với việc kinh doanh mà cả các vấn đề khác nữa, Chính phủ nên tiến hành với nguyên lý trung dung. Từ khi chính phủ Mỹ chi tiêu không điều độ, nợ quốc gia của Mỹ đã lên tới quá 1.000 tỷ đôla, riêng tiền lãi vay quá 100 triệu đôla vào tháng 6 năm 1982. Đây là một trong những lý do khiến lãi suất vay ở Mỹ quá cao, như đã nêu trước. Thuyết trung dung không chỉ dành cho việc kinh doanh và các chính phủ mà còn cho các gia đình và cá nhân. Nói cách khác, chúng ta phải thực hành trung dung trong thực phẩm ta ăn, quần áo ta mặc và nhà ta ở. Theo Thời báo ngày 31--5-1982 thì hàng triệu dân Mỹ đang lo lắng bởi nợ cá nhân. Năm 1981, bình quân là 6.737 đôla/người. Người ta không thể trả nợ là việc ngày càng thường xuyên hơn; vỡ nợ cá nhân năm 1978 là 179.194 vụ, năm 1981 lên tới 465.914 vụ. Cũng tờ báo đó đăng bài một luật sư và vợ cùng kiếm được 40.000 đôla/năm. Họ có một xe hơi mới và một căn nhà mới. Họ giống như mọi gia đình Mỹ đang sống mọi giấc mơ Mỹ. Họ cũng bị phá sản. Họ không chỉ phá sản, mà còn nợ 18.000 đôla. Tại sao điều này xảy ra? Bởi họ quên nguyên lý trung dung, từng được Benjamin Franklin dạy rồi. Nguyên lý sống ngày nay là cứ tiêu tiền nhiều nhất có thể - tiêu đã, trả sau; vay trước, lo sau. Khi người ta mất sự điều độ – nói cách khác là quân bình, hay hài hòa - thì họ đang mời rắc rối đến. Tờ “Thời báo” viết tiếp: “Họ mắc nợ bởi tín dụng trả góp rẻ, khiến đời sống dễ dàng bởi vì lạm phát có vẻ đảm bảo sẽ có lương nhiều và viễn cảnh trả được nợ khi tiền rẻ đi. Nhưng giờ rất nhiều dân tiêu thụ đối mặt với những hậu quả rất khó chịu. Sự suy thoái và tỷ suất cho vay cao đang đe dọa mọi ảo tưởng...”. Với những người thừa nhận họ không thể có đủ những thứ họ muốn là có nghĩa họ đang tự đặt mình vào vị trí yếu kém. Giáo sư phân tâm học ở Đại học Y Harvard - ông Edward J. Khantzian nói: “Họ phải nói “không” với chính họ và chẳng ai muốn thế. Tất cả, tóm lại là không thể chấp nhận được giới hạn”. Điều này có nghĩa người Mỹ mất nguyên lý trung dung và quân bình. Không chỉ những cá nhân mà các quan chức Chính phủ và các nhà hành pháp đều mất trung dung. Đây là nguyên nhân rối loạn kinh tế hiện nay ở Mỹ. Chừng nào Chính phủ không cân bằng ngân sách, kinh tế Mỹ sẽ tiếp tục tồi tệ cho tới thảm họa cuối cùng, có thể là thế chiến III trong 15 năm tới, trừ khi ta có thể thay đổi khuynh hướng này. Tóm lại, trong những ngày bất ổn kinh tế này, tài sản thực sẽ không được đo bằng tiền trong ngân hàng hay bảo đảm về chính trị. Tài sản thực được đo bằng việc có đầy đủ ngũ cốc, một nguồn nước sạch ở gần, sức khỏe tốt, một khu vườn nhỏ màu mỡ, phong phú, một ngôi nhà ấm áp và an toàn, không quá đồ sộ và một số thành viên gia đình cùng bạn bè tốt. -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#30
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,325 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
28. cốt tủy của Thực Dưỡng
Giảng tại trại hè Đồng cỏ Pháp Tháng 10 năm 1982 Hôm nay, tôi nói về Thực Dưỡng rất căn bản. Các bạn phải hiểu cốt tủy của Thực Dưỡng. Chữa ung thư, lao hay bệnh tim mạch... không phải là vấn đề cốt tủy - đấy chỉ là sản phẩm phụ. Khi các bạn đã hiểu được vấn đề cốt tủy thì hệ quả hay sản phẩm phụ của nó sẽ đến một cách tự nhiên. Làm khác đi thì bạn sẽ gặp khó khăn rất nhiều.Nếu các bạn ngay lập tức muốn chữa lành bệnh thì rất khó khăn, nhưng nếu các bạn tuân thủ theo cái cốt lõi, chính yếu của Thực dưỡng thì phần còn lại tự tới. Vậy tinh hoa Thực Dưỡng là gì? Khi suy nghĩ, thì ta luôn luôn nghĩ dưới hai dạng - tất nhiên là dương và âm. Thực Dưỡng có mặt âm và có mặt dương. Mặt âm của Thực Dưỡng là tinh thần. Ta không thể nhìn thấy, sờ thấy, cảm thấy hay nhai nó được. Mặt dương của Thực Dưỡng gồm vật chất (hữu hình). Ta có thể gọi nó là ăn uống hay luyện tập, làm chủ thân thể. Ta có thể tiếp cận nó bằng các giác quan thông thường. Đa số người bắt đầu từ mặt dương và nhiều người chỉ nắm bắt mặt dương mà không bao giờ với tới mặt âm. Tôi lại bắt đầu từ mặt âm, sau đó chuyển sang mặt dương. Thế cũng được. Nhiều người bắt đầu ở mặt dương và lâu sau mới sang mặt âm. Thế cũng tốt thôi. Nhưng cuối cùng thì cần phải có cả hai. Tùy ta muốn bắt đầu từ mặt nào cũng được. Ta hãy nói về mặt dương trước. Mặt dương bao gồm ăn uống, nó gần gũi với các bạn. Thứ chính yếu của ăn uống Thực Dưỡng là cốc loại. Ta có thể quên rau, rong biển, gia vị..., thức ăn chính của ta là cốc loại. Do vậy, giáo sư Ohsawa khuyên cách ăn số 7. Nhưng để mà sống chỉ bằng cốc loại thì ta phải khỏe; do đó, tôi chỉ khuyên chế độ toàn ngũ cốc cho những thành viên Thực Dưỡng tiên tiến. Rau có tác dụng gì trong cơ thể ta? Chúng cung cấp cho ta các enzym tiêu hóa, co-enzym và một lượng nhỏ các cácbon hydrat, đạm và chất béo (lượng nhỏ). Ba chất cácbon hydrat, đạm và chất béo này chủ yếu là do cốc loại cung cấp, chúng trợ lực cho sự sống của ta, tạo nên máu và các tế bào. Chúng ta phải ăn rau quả và rong biển để có các enzym và co-enzym. Enzym là gì? Chúng là hoạt chất, thúc đẩy các phản ứng hóa học. Nếu không có các enzym thì các phản ứng hóa học trong cơ thể xảy ra rất chậm chạp và không hội tụ được những yêu cầu cần để phân giải và tiêu hóa thức ăn. Đôi khi không đủ enzym cho hoạt động này, nên cần trợ giúp. Các tác nhân trợ giúp gọi là co-enzym, còn gọi là vitamin. Vitamin chỉ được sinh ra trong rau quả. Cho nên nếu ta không có đủ enzym thì ta phải ăn rau quả. Đó là lý do tại sao ta ăn rau quả. Khi khỏe mạnh, có vẻ ta không cần nhiều rau quả đến vậy. ở Nhật Bản có những người dân miền núi chỉ sống bằng các loại hạt - họ vẫn đủ vitamin. Chúng ta không có môi trường như vậy, nên ta phải có vài loại rau quả, nhất là lúc bắt đầu. Nếu đã từng ăn nhiều thịt động vật, thì bị thiếu nhiều enzym và vitamin. Do vậy khi mới đến với Thực Dưỡng, các bạn cần nhiều rau quả và rong biển... Khi cải thiện được sức khỏe mình, dần dần ta không cần nhiều rau quả nữa. Điều cốt yếu của ăn uống là thay đổi cách ăn khi sức khỏe thay đổi. Khi tình trạng cơ thể thay đổi thì các nhu cầu cũng thay đổi theo. Nhu cầu ăn uống của mọi người không giống nhau và ngay cả cho cùng một người cũng không giống nhau. Các bạn phải hiểu thấu cốt lõi của cốt lõi: sự biến dịch. Thực chất không có gì cố định, rạch ròi, theo kiểu “điều này phải như thế này” trong Thực Dưỡng. Khi tình trạng sức khoẻ của các bạn được cải thiện, các thứ thay đổi theo. Đôi khi các bạn cần nhiều rau, rong biển, muối vừng v.v... - nhưng đôi khi không nhiều thế. Hãy nhớ, điều ta cần là thay đổi, biến dịch. Nhiều lỗi lầm thường xảy ra. Chẳng hạn, bố mẹ không ăn được nhiều muối mặn nên họ không cho con cái ăn, rồi con trẻ trở nên yếu ớt. Điều gì đã xảy ra vậy? Các bậc cha mẹ đã ăn thịt động vật nhiều năm rồi và đã tích một lượng muối. Do vậy, muối không phải là chủ yếu và cần thiết đối với họ. Nhưng nếu con nhỏ của họ được nuôi theo Thực Dưỡng thì với nó việc dùng muối dưới hình thức nào đó lại là điều chính yếu. Cho nên những nhu cầu chủ yếu của bố mẹ và các con họ khác nhau trong những trường hợp như vậy. Điều này phải được hiểu. Và nhiều điều khác nữa cũng khác nhau giữa mỗi người. Trong khi tổ tiên ta, từ bất kỳ chủng tộc hay văn hóa nước nào, hàng nghìn năm trước đã biết rằng thực phẩm chính của con người là ngũ cốc, thì khoa học hiện đại mới nhận ra thực tế này gần đây thôi. Nhiều nước có những tôn giáo nói rằng cốc loại là thực phẩm chính. Trong tôn giáo La Mã, người ta đã thờ những cây lương thực như là thần linh. ở Mêhicô và đối với dân da đỏ thì ngô được thờ làm thực phẩm chính. ở Nhật thì có thần lúa, thần nông. Hai nghìn năm trước, lúa gạo được coi là thực phẩm quan trọng nhất. Thần lúa đã dạy dân Nhật: “Nếu các ngươi ăn cơm gạo”, tất nhiên là gạo lứt, “giống nòi Nhật sẽ không bao giờ tiêu vong”. Nhưng phải gần 2.000 năm sau CN, vào khoảng năm 1976, khoa học và Chính phủ Mỹ cuối cùng mới thừa nhận cốc loại là thực phẩm chính. Nguồn năng lượng chính của ta là từ ba loại chất bổ: cacbon hydrat, protein và chất béo. Khoa học dinh dưỡng hiện đại đang nghiên cứu tìm loại nào quan trọng nhất.Cacbon hydrat không được chọn bởi chúng chủ yếu cấu tạo từ các chất đường ngọt phức hợp, mà đường đã gây đầy rắc rối, nhất là tiểu đường. Tiếp đó, người ta loại chất béo, nó không phải nguồn dinh dưỡng chính yếu. Khoảng những năm 60, Ancel Keys đã tìm ra rằng kẻ thù đầu sỏ cho sức khỏe con người - bệnh tim mạch - là do có quá nhiều chất béo trong chế độ ăn. Sau đó là đạm, nhưng đạm sớm bị phát hiện không phải là một nguồn năng lượng tốt, chủ yếu tại vì nó có xu hướng loại các khoáng chất và axit hóa cơ thể. Cho nên trong thế kỷ này, ta đã tìm ra rằng chẳng thứ nào tốt cả - dù là đường, đạm hay chất béo. Rồi một nhà khoa học đã thí nghiệm với cốc loại lứt cho bệnh nhân tiểu đường. Có quan niệm rằng cho bệnh nhân tiểu đường ăn chất đường có từ tinh bột chế biến quá kỹ - bánh mì trắng, cơm trắng... thì rất nguy kịch, nhưng bác sĩ này cho họ ăn cốc loại lứt (còn nguyên vỏ cám) thì họ khỏi bệnh. Cho nên cuối cùng các nhà khoa học thừa nhận rằng đường (từ cốc loại tinh chế) với cốc loại lứt là khác nhau. Đó là khoa học đã không nhận ra rằng chất đường khác với cốc loại lứt. Chúng ta đã bảo họ lâu rồi. Tôi không biết tiên sinh đã tìm ra thế nào, nhưng nhiều năm trước Ohsawa đã bảo cho bệnh nhân tiểu đường ăn cơm lứt (với muối vừng, kèm món đỗ đỏ hầm bí đỏ) mà họ chẳng nghe theo. Gần 80 năm trước, bác sĩ Thực Dưỡng gốc Nhật - Sagen Ishizuka - đã nói chính điều đó, mà điều đó cũng được biết tới từ 2.000 năm trước rồi. Cốc loại lứt - đường phức hợp - cũng được cấu tạo từ đường, nên các nhà khoa học đã từng lầm tưởng rằng nó cũng tương tự các đường đơn từ cốc loại tinh chế, bánh mứt kẹo, hoa quả.... Khi họ nhận ra khác biệt thì cốc loại mới được coi trọng hơn. Nhà khoa học người Anh, Denis Burkitt từng làm việc tại một bệnh viện châu Phi và nhận ra rằng các thổ dân không bị bệnh tim mạch. Năm năm liền ở bệnh viện không có bệnh nhân tim mạch nào là thổ dân cả, trừ những người da trắng và vài dân bản xứ Âu hóa sống ở thành phố. Ông đã rất tò mò - khác biệt ở đâu vậy? Kết luận của ông là: do chế độ ăn - cốc loại lứt. Những phát hiện này cùng với khuyến cáo của Thượng nghị viện Mỹ rằng cốc loại thô nên chiếm 55% khẩu phần ăn, đã khiến cốc loại thành thượng phẩm. Cuối cùng, về cốt lõi chế độ ăn kiêng: xin hãy nhai kỹ. Như các bạn biết, cốc loại chủ yếu là đường (hydrat cacbon), vốn đa phần được nước bọt tiêu hóa. Nếu chúng không được nhào kỹ với nước bọt thì chúng khó mà tiêu hóa. Nên, hãy nhai kỹ. Đây là cốt lõi của mặt dương trong Thực Dưỡng. Giờ đến mặt âm - mặt tinh thần. Tôi nhấn mạnh thiên về mặt tâm hơn là mặt thân. Để hiểu mặt âm của Thực Dưỡng, trước hết phải hiểu sự sống là gì. Sự sống là gì? Hiện tại, để hiểu được điều này sẽ phải bắt đầu từ Thực Dưỡng. Nhưng có thể thực hành điều này. Ta đang sống. “Ta đang sống” có nghĩa ta biết sự sống. Ta đã sống bao năm rồi? 30 năm ư? Ta đã thực hành quan niệm sống từ 30 năm. Ta biết đời sống là gì - do vậy ta sống. ý thức không biết, nhưng vô thức vẫn biết. Không có thực thì sự sống không biểu lộ. Có sự sống vô hình vốn tiêu thụ thức ăn xác định (là vật chất) và có lực sống, và dần dần sự sống vô hình đó vật chất hóa thành thứ ta có thể nhìn thấy. “Sự sống lớn lao” này biểu lộ trong cá nhân và ta phải hiểu rằng sự sống cá nhân này tự tạo nên sức khỏe. Nếu bị đau ốm, thì đấy là phi tự nhiên, có gì đã không ổn rồi. Cho nên chữa bệnh chỉ là thay đổi một điều phi tự nhiên cho trở lại tự nhiên. Chẳng cần máy móc hàng triệu đô-la để chữa bệnh. Các bác sĩ tự hào về máy đo chụp cả triệu đô-la, nhưng với tôi, điều này không thật tự nhiên. Mạnh khỏe là tự nhiên, bệnh tật là phi tự nhiên. Cho nên rất dễ chữa bệnh, trong khi rất khó bị bệnh. Cần phải hiểu điều này rất rõ ràng, đó là cốt lõi của Thực Dưỡng. Về bản chất ta không bị ốm. Người ta bị ốm và sợ hãi: “Ôi, mình sắp chết. Mình phải đi bác sĩ và đi bệnh viện”. Có tư tưởng như vậy bởi họ không hiểu rõ ràng: bệnh tật là không tự nhiên. Đa số thời gian ta mạnh khỏe, tự nhiên; thỉnh thoảng, thường trong khoảng thời gian ngắn so với tỷ lệ quãng đời, ta mới ốm, bất tự nhiên. Ta trở nên bất tự nhiên trong một khoảng thời gian ngắn mà ta đã ngạc nhiên, sợ hãi và nghĩ rằng bệnh sẽ tiếp diễn mãi. Điều đó khiến ta ốm hơn là bệnh gốc (bệnh tưởng). Nếu ta bị một chứng đau dạ dày, chứng đau này sớm khỏi bởi ta có một lực sống tự nhiên vốn trội hơn bệnh tật và cho phép sức khoẻ ta tự thể hiện trong trạng thái tự nhiên của nó. Nhưng khi bị đau mà ta lại uống thuốc cắt cơn... thì điều đó khiến sự việc trở nên phi tự nhiên thêm. Do đó, bệnh tật cứ đi sâu thêm, sâu hơn. Đó là điều ta đang thấy bây giờ. Thay vì cho phép lực sống của ta thể hiện, thì ta lại thao túng nó và khiến cho mọi thứ trở thành phi tự nhiên. Đây là cốt lõi: ta phải hiểu rằng sinh lực tự nhiên là sức khoẻ. Khi ta được một đức tin như vậy thì ta rất an toàn, đời ta lại được bảo đảm. Ta cũng cần phải hiểu rằng khi bị ốm, nguyên nhân của bệnh là lỗi lầm của ta. Không phải ai đó hay gì đó khác, đấy là chính ta, trừ trường hợp trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ. Từ khi ta bắt đầu sống tự lực, mọi bệnh tật và bất hạnh đều do ta gây nên. Chẳng có gì để trách bất kỳ ai khác. Điều này cũng được nhà hiền triết La Mã Epictetus nói tới, còn chủ yếu là quan điểm của Thực Dưỡng. Epictetus là một nô lệ của đế chế La Mã, ông bị xiềng xích đến 80 tuổi. Nhưng khi là nô lệ, ông luôn học. Cho nên một hôm, vua La Mã tháo xích ông và tôn ông làm thầy mình. Rồi Epictetus viết bốn cuốn sách, ba tập đã thất lạc, chỉ còn một, trong đó viết Mọi người đều hạnh phúc, nếu không, đấy là lỗi của chính mình. Ông làm nô lệ 80 năm liền. Nếu bạn bị ốm 80 năm rồi khỏi và còn có thể nói “Lỗi tại ta” thì đấy cũng là điều ông ấy đã làm. Hai năm trước, tôi có một bệnh nhân bị ung thư vú - một bên đã từng bị phẫu thuật và ba tháng sau, bên kia thành ác tính. Cô đã tới tôi, cô không muốn bị mổ nữa và đã theo chế độ ăn uống tự nhiên. Cô về nhà và bắt đầu chế độ ăn uống mới. Ba tháng sau, cô quay lại Vega và học thêm. Khi cô ở tại Vega, cô liên tục bị đau lưng, luôn dùng thuốc giảm đau. Sau một tuần, cô khỏi đau và không cần thuốc. Cô thật sung sướng. Cô nói: “Con thật là mừng, con muốn làm lại cuộc đời, cũng như cách này”. Có nghĩa là cô có thể bị lại ung thư lần nữa. Dù nếu bạn bị ung thư, bạn vẫn có thể hạnh phúc. Điều đó thật ngạc nhiên. Điều đó tùy thuộc vào tâm thức bạn. Bệnh tật là ở thân, nhưng hạnh phúc hay bất hạnh là ở tâm. Điều này rất quan trọng. Khi bị ốm, làm sao ta có thể hạnh phúc? Nếu ta được ăn thực phẩm chuẩn (ngũ cốc lứt không bón phân hoá học, không phun thuốc trừ sâu), tỷ lệ và lượng đều tốt thì ta có thể hạnh phúc dù đang bị ốm. Điều đó gây lạ lẫm. Bệnh của bạn không khỏi qua đêm, nhưng nếu bạn đủ thức ăn tốt lành thì có thể hạnh phúc. Đây là một trợ lực lớn lao. Cho nên xin hãy hiểu rằng bệnh tật hay bất hạnh (cơ thể hay tinh thần) của ta tùy thuộc vào chính ta. Nếu các bạn hiểu rằng bệnh tật hay bất hạnh tùy thuộc vào chính mình thì điều khó nhất liền xảy tới tiếp theo: Chẳng có gì để phàn nàn. Các vị phải định hình “Mình sẽ không phàn nàn”. Đây là một cốt lõi quan trọng của Thực Dưỡng, khi phàn nàn là ta đang không “Thực Dưỡng”. Tôi nói rằng những khó khăn nhất đời bắt đầu từ phàn nàn. Trong chuyến thuyết giảng, tôi đã gặp một đôi vợ chồng trẻ, họ đang hầu như ly thân. Anh chồng đã kiếm được một cô gái trẻ trung, xinh xắn, rất dễ thương và họ thường gặp nhau. Cô vợ càng phàn nàn thì anh chồng càng đến với cô gái đẹp kia - vốn không (vẫn chưa) phàn nàn. Rồi anh ta hỏi vợ: “Mỗi tuần tôi ở với cô ấy hai đêm nhé?”. Phải bạn thì sao? Cô vợ đáp: “Tùy anh”. Cô nói thế, nhưng tất nhiên, trong bụng không sung sướng gì. Nhưng vì cô hiểu chút về Thực Dưỡng, cô đã cố ôm tất cả. Nên cô vợ đã chấp nhận cô gái kia, và cố gắng nói: “Được thôi”. Họ hỏi tôi nghĩ sao? Tôi đáp: “Đừng ôm đồm. Anh không được ôm đồm điều đó. Anh có thể ôm đồm về tinh thần chứ không phải thân xác. Về mặt thể xác, anh không được ôm đồm hai cô gái”. Anh ta không hài lòng: “Tối nay tôi tới chỗ cô gái đó và ở qua đêm”. Tôi nói: “Đừng, nếu sống tâm linh cao thì anh không làm thế được”. Tôi đã bảo thế. Họ đã bị lầm lẫn thân với tâm. Tối hôm sau, vợ anh ta bảo tôi: “Con đã gây một lỗi lầm lớn rồi. Rắc rối này đã xảy ra vì con đã phàn nàn quá nhiều. Con đã luôn luôn phàn nàn với chồng mình nên anh ấy đã đi với cô gái khác”. Cô đã bảo với chồng: “Em xin lỗi vì đã kêu ca quá nhiều”. Và cả hai đều hiểu. Vài tháng sau, tôi gặp lại anh chồng, anh ta bảo sự việc đã ổn, anh ta đã tách khỏi cô bồ trẻ. Cho nên, điều quan trọng là không phàn nàn, nếu phàn nàn là mọi sự đổ vỡ. Điều này trong Thực Dưỡng rất khó. Thường thì người dương tạng là những người hay phàn nàn, còn , người âm tạng cũng phàn nàn nhưng không bộc lộ ra. Các bạn phải nói chuyện thay vì phàn nàn. Phàn nàn là phá hoại, nhưng khuyên nhủ hay gợi ý, hoặc cố gắng để hiểu - thì quan trọng. Nếu bạn đã tự soi xét mình và muốn nói gì đó với người khác thì đấy không phải là phàn nàn, nhưng nếu bản ngã bạn nói “Tôi không thích thế này, thế nọ” thì bạn đang phàn nàn. Giữa hai điều này có sự khác biệt rất tinh vi. Nếu bạn thực sự chân thành trong tư tưởng đối với người khác thì đấy không phải là phàn nàn. Bạn chỉ bày tỏ cảm xúc của mình ra. Cho nên hãy tự soi xét bản thân hơn trước khi định phàn nàn. Ngay khi bắt đầu phàn nàn thì hãy nhấn nó xuống. Gần như khi nó bắt đầu thoát khỏi miệng thì hãy nuốt nó cái ực - rồi tiêu hóa nó đi. Hãy nhai kỹ nhé! Thế thì bạn sẽ thấy nó không quá quan trọng để phải phàn nàn. Thái độ này cần phải âm tính. Dương thì không nuốt xuống, với người dương tính thì nó phóng thẳng ra. ở người âm tính thì phàn nàn lại quay vào, đôi khi nó ở trong và không được tiêu hóa và gây ra “táo bón”. Điều đó lại cũng không hay, cho nên ta phải lôi nó lại và tiêu hóa hoàn toàn. Nếu bạn có điều gì phàn nàn, bạn phải đưa ra một giải pháp. Làm thế nào để giải quyết vấn đề - trước khi phàn nàn. Nếu bạn nghĩ ai đó gây một lỗi lầm, thì hãy nêu ra một gợi ý thay vì phàn nàn. Điều này có thể làm thay đổi cách xử sự của ai đó. Trong hầu hết trường hợp, ta không làm được điều này. Nếu bạn có thể thay đổi được cách cư xử của ai đó thì bạn quả là một đại nhân. Nếu bạn không thể, thì cũng đừng phàn nàn, bởi điều đó vô dụng. Nguyên nhân bạn phàn nàn là bạn thích thay đổi cách xử thế của người kia. Nếu điều đó không thành thì phàn nàn là vô dụng. Bạn hiểu chứ? Phàn nàn chỉ đáng giá khi là vì lợi ích, hạnh phúc lẫn nhau. Nếu phàn nàn không mang lại sung sướng cho lẫn nhau thì nó không tốt. Nếu bạn muốn thay đổi lối ứng xử của một ai đó thì hãy gợi ý. Nếu ta có nhân cách thì gợi ý sẽ được chấp nhận. Nếu bạn ở cùng cấp độ cảm tính thì gợi ý không được chấp nhận. Đây là điều đáng phải suy ngẫm. Ta cần phải nâng cao sức mạnh tinh thần của mình. Để các gợi ý của ta được đón nhận, hãy nói “Làm ơn sửa cách cư xử của tôi” hay “Những hành động này khiến tôi mệt mỏi, xin hãy sửa đổi đi”. Thay vào đó, bạn lại phàn nàn. Làm thế nào để có thể nâng cao những sức mạnh tinh thần của ta? Đấy là mục tiêu của chúng ta. Mục đích của Thực Dưỡng là khiến tinh thần ta an lạc hơn, chẳng gì khác. Để làm thế, ta ngưng ăn đường. Điều này khiến ý chí ta cao. Tại sao? Bởi vì ta thích đường. Khi ta ngưng ăn đường, ta nâng cao sức mạnh tinh thần ta. Khi ta ngừng ăn thịt, ta cũng nâng cao sức mạnh ý chí ta, bởi cái ta muốn thuộc cảm giác. Tuân theo cái mình thích là phán đoán thuộc căn trần - cảm tính, ngã chấp - trí phán đoán rất thấp. Khi bạn vượt được điều này thì bạn có thể kiểm soát được trí phán đoán cảm tính, có được giác quan này, bạn ở đẳng cấp tâm linh cao hơn. Khi bắt đầu Thực Dưỡng, bạn ngừng cái bạn đã từng thích. Nếu bạn đã thích phó mát thì bạn ngừng phó mát. Cho nên bạn tăng ý chí nhiều từ lúc đầu. Đầu tiên, bạn không thích cơm lắm, nhưng cốc loại sớm trở nên rất ngon. Sau khi ngưng ăn đường, bạn sớm thích gạo lứt, nó trở thành phán đoán thuộc giác quan. Kế tiếp, bạn ngưng gạo lứt - thế là bạn hoàn thiện trí phán đoán căn trần! Cũng vậy, bạn bỏ gì đó - hút thuốc chẳng hạn. Tôi đã cố cải thiện trí phán đoán của mình. Tôi đã rất thích hút thuốc từ 25 năm liền; thật rất khó bỏ thuốc, nên tôi bỏ nó. Rồi tôi bỏ câu cá. Tôi đã rất thích câu cá, tôi đã cắt luôn không nghĩ về câu cá. Cái gì bạn thích, thì hãy cắt. Dừng lại. Thế thì bạn siêu vượt trí phán đoán cảm tính. Phần lớn chúng ta không làm được điều này, Vậy bạn đã hiểu ý tưởng về sự hy sinh chưa? Người thượng cổ sẵn sàng hy sinh vì Thượng Đế. Cái mà bạn yêu thích nhất thì hãy dành cho Thượng Đế. Điều đó sẽ làm tăng trí phán đoán cảm tính của bạn. Bạn phải học cách hy sinh. Ví dụ, theo truyền thống Nhật Bản, khi nấu cơm xong, bát cơm đầu tiên được dành để cúng Trời. Đó là sự hy sinh. Còn trong đời sống của chúng ta, bạn dành bát cơm đó cho người hàng xóm, như vậy bạn sẽ phải ăn ít đi, đó là sự hy sinh. Nếu thực hành được như vậy thì đời sống tâm linh của bạn sẽ được nâng cao. Hãy ghi nhớ luôn luôn sống trong sự hy sinh để nâng cao mình. Đó chính là tinh thần của Thực Dưỡng. Hãy dành cả thời gian của bạn, chứ không phải chỉ có thức ăn. Hãy dành thời gian và sự giúp đỡ của mình cho những người khác. Vì thời gian là tiền bạc, thời gian là cuộc sống, hãy dành nó cho người khác. Nếu bạn chỉ dành toàn bộ đời sống cho riêng mình thì đó chưa phải là cách Thực Dưỡng. Nếu bạn sống được 50 tuổi, hãy dành 25 năm cho những người khác. Đó là cách để làm tăng trí phán đoán của bạn. Có như vậy mọi người sẽ bắt đầu lắng nghe bạn. Nếu không tự nâng cao mình thì sẽ không có ai lắng nghe bạn cả. Nếu bạn ăn đường và thịt thỏa thích thì sẽ không có ai lắng nghe bạn. Gandhi là vị lãnh tụ tinh thần của 400 triệu người ấn Độ vì ông có một tinh thần cao cả. Ông luôn kiểm soát việc ăn uống và có một tinh lực mạnh mẽ. Đó là điều các bạn cần học tập nếu tiếp tục theo con đường này. Hàng ngày trong khi ăn, bạn phải nâng cao tinh thần. Nếu muốn uống sữa, bạn hãy dừng nó lại, muốn ăn kem cũng vậy, cần dừng lại. Mỗi lần vượt qua được nhu cầu giác quan thì bạn đang được nâng cao. Khi không thể dừng được thì cũng đừng đổ lỗi cho bản thân, vì nhân bất thập toàn. Chúng ta biết rằng mình hãy còn yếu. Cách suy nghĩ như vậy cũng rất quan trọng. Sau đó hay quay trở lại với cách ăn uống Thực Dưỡng. Trên đây là suy nghĩ của tôi về cốt tủy của Thực Dưỡng. -------------------- The last |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 15th August 2025 - 06:26 AM |