![]() |
![]() ![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#51
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
49. Các mục tiêu của phương pháp Thực Dưỡng
Tháng 8 năm 1984 Mục tiêu thứ nhất của phương pháp Thực Dưỡng là giúp mọi người trở nên giàu có. Trong xã hội tư bản, muốn được giàu ta phải dành dụm (hay thừa hưởng di sản của thân nhân) rồi sống với số tiền lời tạo ra từ số vốn đó. Ví dụ, nếu bạn tích trữ hay thừa hưởng gia tài 1/4 triệu USD, bạn có thể gửi ngân hàng rồi nhận 25.000 USD tiền lời hàng năm, tính ra mỗi tháng lãi được hơn 2.000 USD, như thế là đủ cho một đôi uyên ương. Nếu bạn làm thêm được nữa, bạn lại gửi vào ngân hàng, tiền lãi tăng. Vốn vẫn nằm ở ngân hàng, bạn sống với tiền lời. Hoặc đầu tư vào doanh thương lãi suất cao hơn, lên đến 20% đấy. Thế là bạn giàu rồi. Thế nhưng trong thế giới sinh vật, lãi suất được cho nhiều hơn. Vũ trụ rộng rãi hơn ngân hàng, vũ trụ bao la vô cùng. Đây nhé! Một hạt gạo sản xuất ra cả trăm hạt gạo khác, nếu được gieo trồng ở đất tốt, chăm sóc kỹ lưỡng. Thế thì trong thế giới sinh vật, lãi suất 99 lần nhiều hơn vốn nghĩa là 9.900% mà không phải là 10% hay 20%. Như vậy ai trồng lúa có thể sẽ giàu có như ông Fukuota (tác giả cuốn “Cách mạng từ cọng rơm”), nếu kẻ ấy không làm mất phẩm chất của đất bằng phân hóa học. Dùng bữa theo phương pháp Thực Dưỡng có nghĩa là bạn thu hoạch lợi nhuận to lớn của vũ trụ. Dòng máu của chúng ta, các dung dịch trong cơ thể, các cơ quan, tế bào, hệ thần kinh, đặc biệt là óc, hoạt động theo quy luật của vũ trụ, theo diệu dụng của trí siêu xuất. Do đó bạn nhận 9.900% lãi suất của vũ trụ: 1 USD đầu tư vào phương pháp Thực Dưỡng đẻ ra 99 USD tiền lời - nếu bạn theo phương pháp Thực Dưỡng đủ thời lượng để bồi bổ sức khoẻ và tĩnh dưỡng tinh thần. Hầu hết những kẻ làm giàu từ cuộc sống bần cùng đều qua tuổi xuân với các bữa ăn đạm bạc giống như bữa ăn Thực Dưỡng vì cha mẹ của họ không đủ khả năng cho họ ăn các món ăn đắt tiền. Nhờ vậy họ có thể xác tráng kiện, tinh thần minh mẫn và có đủ đức độ để xây dựng tài sản cho cả cuộc đời. Mục tiêu thứ 2 của phương pháp Thực Dưỡng là sống lâu, sống vui vẻ và hạnh phúc, thực hiện được mọi mơ ước. ít bệnh tật để đưa đến trường thọ. Ngoài ra sống theo phương pháp Thực Dưỡng cuộc đời sẽ vui tươi vì bạn đang thực hiện thoả đáng tuần tự các mơ ước. Hầu hết mọi người có lợi tức trung bình đều làm việc vất vả và cố dành dụm cho thời gian hưu trí. Khi thời gian đó đến, họ lo hưởng thụ để bù vào lúc lam lũ: du lịch, giải trí... Đối với họ lao động chả thú vị gì, nên làm việc khá miễn cưỡng, làm việc vì muốn có tiền tiêu lúc tuổi già. Phương pháp Thực Dưỡng thì khuyên bạn hãy vui sướng với việc hiện đang làm, chẳng những để có tiền tiết kiệm mà còn được nhiều người mến chuộng, kể cả sau khi bạn qua đời, vì vậy bạn được hạnh phúc thực sự. Mục tiêu thứ ba của phương pháp Thực Dưỡng là sống tự do, khỏi lo tiền tệ... vì ăn uống theo Thực Dưỡng quá ư đơn giản, nếp sống cũng giản đơn. Có món nào đắt tiền đâu. Phương pháp Thực Dưỡng giúp bạn có đầu óc sáng tạo và thích làm việc vất vả, vì ẩm thực thích hợp sẽ gia tăng sinh lực, bạn trở nên mẫu mực trong môi trường bạn đang vui sống và bạn khỏi lo mất việc. Hơn nữa phương pháp Thực Dưỡng chỉ cho ta rõ căn nguyên của bệnh tật và cách điều trị. Bệnh tật không thể đe doạ bạn được. Dĩ nhiên là phải nhiều năm xả thân thực nghiệm và tìm hiểu nguyên lý Thực Dưỡng. Sau rốt, phương pháp Thực Dưỡng giúp ta ngộ nhập trí phán đoán siêu xuất, nhờ đó ta thấy được giá trị của mọi nghịch cảnh hầu buông xả trở ngại để bình tâm. Các nguyên tắc Thực Dưỡng có thể dàn xếp các mối bất hòa vợ chồng, chủ thợ, tư bản - cộng sản, võ trang - phi võ trang, trong đó rắc rối nhất là vấn đề vợ chồng. Bà vợ hay ông chồng nào đã vươn tới giai tầng 7 của trí phán đoán, trí cứu cánh, mọi xung khắc sẽ được hòa giải. Một thành viên của gia đình có được trí phán đoán này sẽ làm cho toàn gia đình sống hòa thuận. Các gia đình khác sẽ noi gương gia đình này. Một triệu gia đình hòa thuận trong một quốc gia làm cho quốc gia đó được hạnh phúc vì số lượng bệnh suy thoái, số tử vong và chi phí dành cho y khoa sẽ thấp nhờ áp dụng phương pháp Thực Dưỡng và cho tổng sản lượng quốc gia và mức sống người dân cao. Các nước khác thay vì muốn xâm lăng lại phải đi học hỏi nước ấy. Do đó hòa bình thế giới được giữ vững. Đó là mục tiêu sau cùng của phương pháp Thực Dưỡng. -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#52
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
50. Một cộng đồng lạ thường
Trung tâm Lama Tháng 8 năm 1984 Đã lâu rồi, tôi muốn tới thăm tổ chức các Lạtma ở New Mêhicô, khi tôi nghe nó nằm ở vùng đất tuyệt vời và tôi nghĩ nó là một cộng đồng Phật giáo Tây Tạng ở đất nước này. Giờ đây, tôi và Cornellia đã có cơ hội đi thăm nơi đó; chúng tôi phát hiện ra rằng xét cho cùng đó không phải là một cộng đồng Phật giáo Tây Tạng. Dù sao, tôi cũng phát hiện ra rằng đó là một trong những cộng đồng đẹp nhất mà tôi từng biết. Mơ ước của tôi được đến thăm nơi đó đã được thực hiện một cách bất ngờ khi tôi nhận được lá thư từ người bạn cũ Pat Johnson hiện đang làm việc ở cộng đồng đó, mời Cornellia và tôi tới dạy ở trại hè. Tôi trả lời ngay lập tức rằng chúng tôi rất vui sướng được dạy Thực Dưỡng ở cộng đồng ấy. Chúng tôi bay tới Albuquerque từ Sacramento vào sáng sớm và khoảng 2 giờ chiều, nụ cười nhiệt thành của Pat đón chào tôi ở sân bay. Sau bữa ăn nhẹ ở Santa Fe, chiếc xe tải Chevy đầy bụi bặm đưa chúng tôi theo đường cao tốc đi về phía Taos, nơi nổi tiếng hấp dẫn những du khách và là nơi nghỉ vào mùa đông cũng như mùa hè. Khoảng 10 dặm ra khỏi Taos, biển chỉ đường ghi: “Lạtma 1 dặm”. Đó là một làng nhỏ với vài căn nhà. Cộng đồng tọa lạc ở đó, vì vậy làng cũng có tên là Lạtma. Lúc đó đã là 6 giờ chiều và chúng tôi đã tới nơi sau khi lái xe một dặm trên con đường bụi bặm và mấp mô. Mệt mỏi sau 12 tiếng đồng hồ du hành trên trời và dưới đất, Cornellia và tôi rút vào ngôi lều dựng trong rừng. Cộng đồng Lạtma có một quang cảnh tuyệt vời mà tôi chưa từng thấy. Trước mặt của cộng đồng, toàn cảnh trải dài, chúng tôi có thể nhìn thấy những vách đá Rio Grande hùng vĩ. Không có gì che khuất tầm nhìn trước mắt, ngoại trừ sương mù vào sáng sớm và bóng tối của màn đêm. Không khí trong lành và không có một tòa nhà nào, không đường dây điện, không anten tivi... Tôi dậy vào sáng hôm sau, khi ánh sáng mặt trời rọi sáng vào lều. 9 giờ sáng, tôi đến căn nhà của họ để giảng bài đầu tiên. Đó là một căn phòng rộng và cao, có thể chứa được một trăm người một cách thoải mái. Căn phòng sáng sủa như là có rất nhiều cửa sổ trên mái. Tôi có thể phóng tầm nhìn ra xa tận phía núi đá Rocky. Khoảng 25 người tới nghe bài giảng của chúng tôi từ các làng bên như Santa Fe, Albuquer hay Taos, có cả vài người thậm chí tới từ Colorado, Texas và Idaho. Phần lớn trong số họ mới biết đến Thực Dưỡng nhưng họ rất quan tâm. Tôi giảng trong 6 ngày và Cornellia hướng dẫn nấu ăn. Người làm việc ở cộng đồng này là những người tình nguyện. Họ dậy vào lúc 5h30; 6h hoặc 7h là thời gian thiền định; ăn sáng vào lúc 7h và làm việc vào 8h. Đến 12h thì ăn bữa trưa và từ 14h - 18h lại làm việc tiếp. Họ gọi cộng đồng này là cộng đồng làm việc và họ làm việc rất tích cực. Cornellia và tôi thắc mắc không biết tại sao họ có thể làm như vậy. Tất cả có 9 tòa nhà. Chúng được giữ sạch sẽ và được xây bằng quỹ quyên góp. Tôi nghe rằng có một nhà văn nổi tiếng đang ở đây và ông ta góp tiền bản quyền cho cộng đồng. Số tiền này giúp xây dựng nhiều ngôi nhà, bao gồm cả giảng đường, nhà bếp, phòng ngủ lớn, phòng xẻ gỗ và nhiều căn lều. Họ đang làm việc để xây một thư viện, gần như là nơi cuối cùng. Một lý do để họ có thể làm việc tích cực là việc ăn uống của họ, toàn bộ là thực phẩm tự nhiên nhưng lại mở rộng hơn “tiêu chuẩn” Thực Dưỡng và bao gồm lúa gạo, rau quả, trứng và pho mát. Trứng và pho mát có lẽ là thức ăn cần thiết trong trời lạnh, để giúp họ làm việc nặng nhọc. Quả vậy, họ ăn thực phẩm động vật có chứa kiềm, và họ làm việc rất tích cực. Mặt đáng quan tâm nhất của cộng đồng đối với tôi, đó là sự quản lý và ban quản lý. Đầu tiên khi tôi tới, tôi thắc mắc không biết ai là người chỉ đạo ở đây. Tôi không thể tìm ra một người đặc biệt nào, vì vậy tôi hỏi Bob Johnson, người bạn Thực Dưỡng của tôi hơn 10 năm nay và đã sống ở đây 2 năm vừa rồi, rằng người lãnh đạo là ai? Anh ta trả lời rằng ở đây không có người lãnh đạo và không ai chỉ huy hay điều khiển cả. ở đây, mọi việc đều giải quyết bởi sự đồng lòng. Do đó, thỉnh thoảng phải mất vài tiếng thảo luận để quyết định một việc. Ai đó bảo với tôi rằng vì phương pháp đồng lòng này mà mọi thành viên đều mất dần bản ngã khi sống ở đây. “Mất bản ngã” với tôi dường như là cách giáo dục hay nhất mà cộng đồng các Lạtma đưa ra. Theo quan điểm của tôi, nhược điểm quan trọng nhất của người phương Tây là họ quá đề cao bản ngã, nó làm cho họ không thể hòa hợp với người khác được. Liệu cộng đồng các Lạtma có sẵn sàng để có người lãnh đạo không? Cộng đồng bắt nguồn từ 2 đôi đến đây 19 năm trước, từ Nữu Ước. Họ mua 100 ha đất và bắt đầu cuộc sống cộng đồng. Nhưng họ rời cuộc sống ở đây từ 10 năm trước, nhượng lại cộng đồng, nơi mà bây giờ quản lý nó là những người lao động tình nguyện. Những người lao động tình nguyện này thường ở lại đây khoảng 2 năm vì họ thấy rằng cuộc sống của họ là làm việc ở một nơi nào đó khác. Nhưng cộng đồng giữ lại tinh thần của những tình nguyện viên này. Tinh thần này là người lãnh đạo cho cộng đồng. -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#53
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
51. Tại sao tôi đến trái đất
Tháng 10 năm 1984 Pháp Thực Dưỡng thường bảo rằng ta đến cõi đời này là đến trung tâm hình xoắn ốc với hình thái vật chất. Trước kia thân thể của ta ở ngoài đầu tận cùng của hình xoắn ốc, trong vùng trời vô cùng không sắc tướng mà có khi ta gọi là vùng trời số 7. Mà sao ta rời nơi ấy, một nơi không phiền não, để đến địa cầu? Có lần tôi đã hiện hữu ở đấy, một phút thôi cũng đã đủ cho tôi được hạnh phúc. Tôi từng nói, chúng ta đến địa cầu vì nơi kia chán chường, ta đến đây để vui với cuộc cắm trại, cuộc vui có thể kéo dài 80 năm. Nơi đây thích thú hơn và bạn có thể đạt được điều gì bạn muốn: muốn bệnh được bệnh, muốn hạnh phúc có hạnh phúc ngay. Nếu nhận thức được như vậy, bạn sẽ hài lòng. Nếu không thì bạn oán trách. Tất cả những gì ta có được nơi đây đều do ta tùy ý chọn lựa. Vũ trụ càn khôn buồn chán quá! Không có Hollywood, không nói xấu, không than phiền, mọi người đều toại nguyện. Còn ở nơi đây mọi việc xảy ra mau quá, như: cưới hỏi rồi li dị, cưới nữa rồi li dị nữa... ở đây vui nhộn quá, cả ngày lẫn đêm nên thời giờ qua mau, sực nhớ mình đã 60 tuổi. Tôi sung sướng được đến hành tinh này. Có lần nói chuyện với chú chó Shiro của tôi, tôi bảo nó: lần tới mày hãy trở lại đây bằng hình tướng một con người nhé! Nó trả lời: OK. Nếu bạn không vui sướng, đó là tại lỗi của bạn vì bạn không biết cách hoán chuyển mà! Nghĩ rằng bạn có cái gì khá hơn cái hiện có thì đó là ảo tưởng. Bạn chưa được thoả mãn ư? Hãy cố gắng có thêm kinh nghiệm nữa! Khi vợ tôi tự tử, tôi đau khổ gần như cuồng trí. Tôi đến gặp G. Ohsawa và xin ở lại trường. Tôi là môn sinh lười biếng nhất: không lau nhà, không chịu bán báo... Chỉ ngồi, ăn, ngủ, lắng nghe giảng suốt cả một tháng như vậy. Nhưng đến lúc này tôi nhận ra được bản ngã của tôi. Thể tánh vô cùng luôn luôn biến hóa thành sắc tướng ở trung tâm vùng xoắn ốc, nơi đó hiện hữu tiểu ngã về ta, rồi theo đường xoắn ốc ngược chiều trở về vô cùng. Sự kiện này cứ tái đi diễn lại tạo nên dòng luân chuyển đều đặn giữa đại ngã và tiểu ngã. Nhiều người tu hành phải đi lộ trình dài theo đường xoắn ốc, còn bạn có thể đi thẳng, đi tắt. Đức Jesus đã dạy: cầu nguyện và nhịn ăn để được đáp chiếc xe tốc hành về chân ngã. Nếu bạn vướng mắc một vấn đề lớn, bạn không thể nào ăn được. Khi còn ăn được mà bạn nghĩ là có vấn đề, thì vấn đề không lớn lắm. Nếu ai còn dùng bữa như thường lệ, tôi không lo lắng cho kẻ ấy. Có khá nhiều người không gặp phiền não bao nhiêu, nên Thượng đế cho họ thêm rắc rối để tập giải quyết. Giải quyết được thì họ là con người đích thực. Đến rồi đi, mãi như thế, nhằm đạt đến chân ngã. Đó cũng được gọi là luân hồi hay tái sinh. Khi lâm chung, nếu bạn không ngộ nhập chân ngã, thì bạn bị trôi giạt vào trung tâm biểu đồ xoắn ốc, không đến được vùng trời thứ 7 mênh mông, trùm khắp cả hư không, cho nên bạn phải trở lại thử sức lần nữa. Người Nhật bảo chúng ta đến đây 7 lần. Người nào may mắn chỉ cần một lần. Nhưng tôi thích ở đây hơn. Chúng ta có thể là tù nhân trên hành tinh này, nếu không thì ta có thể là hoàng tử hay công chúa trên thiên đàng trần gian này rồi! Vậy nếu bạn có thể là hoàng tử, tại sao lại than vãn? Trời cho ta đủ thứ, ta có tự do nhưng ta lạm dụng. Khi ta bị bệnh, hãy nghĩ rằng ta có quá thừa tự do. Có lần Ohsawa kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện: khi ở tù, ông giúp nhiều tội phạm lành bệnh. Sau khi mãn tù họ đem biếu ông nhiều quà. Rồi ông còn giúp cai ngục tù chữa lành bệnh. Hơn nữa cai ngục lại trao cho ông chìa khoá và nói: “Bạn có thể rời ngục thất của mình bất cứ lúc nào”. Khi đi vắng, cai ngục luôn trao quyền lại cho Ohsawa, nên tiên sinh thật sự được tự do. Còn chúng ta cũng có tự do đấy chứ! Chỉ cần hiểu rõ điều đó là được. -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#54
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
52. tình bằng hữu
Mùa thu năm 1984 Giao tiếp nhân sự (tương giao) diễn tiến theo 7 giai tầng: Giai tầng 1 có tính chất máy móc, được biểu lộ qua mối tương quan âm dương, hay giữa sự thu hút và chối bỏ. Bạn có thể cảm thấy một người rất hấp dẫn mà không biết được lý do cụ thể. Mối giao cảm này có tính cách máy móc. Giai tầng 2 thuộc về giác quan. Đó là cảm nghĩ giữa con người với nhau. Ví dụ như có kẻ làm lòng ta lạnh lùng, có kẻ lại sưởi ấm lòng ta. Việc phân biệt đẹp xấu thuộc về phạm vi ngũ quan. Giai tầng 3 liên hệ đến cảm xúc: ưa ghét, yêu đương, căm hận, ghen tức, thẹn thùng, nhút nhát, gan dạ, dịu dàng, thẳng thắn, giận hờn, kiêu hãnh, ngang bướng. Sống ở hoang đảo sẽ tránh được hầu hết các phiền não đó. Giai tầng 4: mối tương giao này tùy thuộc óc khoa học hay thuần lý khiến ta đánh giá kẻ khác một cách máy móc. Nghịch lại với giai tầng 3. Mối giao tế này rất lạnh nhạt làm mất hết cả thiện cảm. Giai tầng 5: đây là thái độ giao tế nhân sự nhằm vào xã hội hay có mục đích kinh tế nên được biểu lộ qua sự kỳ thị chủng tộc, kỳ thị chính kiến hay giai cấp xã hội. Giai tầng 6: mối tương giao ở tầng này đượm màu sắc tôn giáo, như mối tương quan giữa lãnh tụ và nhóm người ủng hộ . Vị lãnh đạo không nhất thiết phải hành trì một tôn giáo hay có trình độ tâm linh, mà cũng có thể là một anh hùng hay một người nổi danh trong doanh thương, thể thao hay chính trị. Giai tầng 7: giao tế nhân sự ở giai tầng 7 biểu lộ bằng tình thương bao la, vô điều kiện, vì hạnh phúc muôn loài. Tất cả các mối tương giao này có thể được chia thành hai nhóm: nhóm tương sinh và nhóm tương khắc. Khi có kẻ nào bổ sung cho các yếu kém của ta thì được ta thích, ta yêu. Ai xung khắc với ta, bị ta thù ghét. Loại cảm xúc này tạo ra lối đối xử thù nghịch, lãnh đạm và cách trở. Hai dạng tương giao này đã được diễn tả bằng thuyết Ngũ hành. Loại tương sinh còn được gọi là mối giao hảo mẫu tử và loại tương khắc được xem như mối giao hảo huỷ hoại. Chu trình giao hảo tương sinh là: thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy. Chu trình giao hảo tương khắc là: thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ. Tuy nhiên, sự tác hại nhau vẫn gặp đối kỵ, vì thủy có thể dập tắt hỏa, thế mà nó bị thổ kiềm chế. Thổ lại bị mộc khắc chế nhưng mộc lại kị kim, kim khắc mộc nhưng sợ hỏa... Nói khác đi, y học phương Đông dạy rằng các mối giao tế của thế giới này không chỉ thuần tương khắc mà cũng có tương trợ, bổ ích cho nhau. Tùy hoàn cảnh, tùy mục đích mà ta sử dụng. Ngược lại với Đông y, y học phương Tây lại quan niệm bệnh tật gây nên do vi khuẩn. Quan niệm này là sản phẩm của sinh vật học phương Tây và tạo dựng nên nền y học phương Tây, một lối xoa dịu tạm thời bệnh trạng, một lối trị liệu triệu chứng với cái nhìn vi khuẩn là kẻ thù của con người. Hậu quả của quan niệm này là chiến tranh giữa các dân tộc, giữa các nền văn hóa, giữa các tín ngưỡng. Chừng nào còn thứ quan niệm thù địch này, thì hòa bình thế giới vẫn còn là mơ tưởng. Thành công trong hôn nhân Trong các mối tương giao, quan hệ vợ chồng là khó nhất. Vì dây thân ái quá chặt chẽ nên bản ngã dễ va chạm. Có đôi vợ chồng đến thăm tôi, thật ra người chồng không định gặp tôi. Cô vợ muốn chồng gặp tôi để được thuyết phục theo phương pháp Thực Dưỡng. Sau khi gặp cả hai, tôi khuyên cô vợ nên chiều chồng vì anh ta có trí phán đoán sâu sắc hơn dù không đồng ý với lối ăn Thực Dưỡng. Anh chồng bất đồng với vợ vì cho là vợ không hiểu rõ nguyên lý Thực Dưỡng, cô ta quá câu nệ vào phương pháp và ích kỷ. Nghe xong lời khuyên của tôi, anh ta rất sung sướng rồi bắt đầu chú ý vào Thực Dưỡng. Sức khỏe Hôn phối phải được xây dựng trên sức khoẻ. Nếu người chồng hay người vợ luôn đau ốm, thì hôn nhân gặp nhiều khó khăn. Một người bị bệnh còn người kia phải lo lắng: kiếm tiền, nấu nướng, chăm sóc trẻ con, và gánh nặng này để lâu ngày sẽ là không tiện. Nhưng nếu muốn học cách chữa bệnh bằng Thực Dưỡng, mà có người bạn đời ốm đau thì đó thật là cơ hội thuận tiện. Nhưng còn thú vui thể xác thì sao? Tài chính Thành công trong hôn nhân phải được gắn liền với lợi tức lương thiện hay có nguồn tài chính đầy đủ, nếu không thì nó chỉ là “lâu đài xây trên cát”. Trong chuyến du thuyết mới đây tại Toronto, tôi gặp một cô yêu một cậu, nhưng cô do dự lập gia đình vì cậu ấy làm ra ít tiền. Tôi khuyên cậu nên đổi nghề và nên nấu ăn tại hiệu ăn Thực Dưỡng. Cậu đồng ý: ngay sau khi ra khỏi phòng tiếp chuyện, cô cậu ôm nhau rồi bàn luận ngày cưới. Thông cảm Một yếu tố quan trọng bậc nhất để có hạnh phúc vững bền là có sự thông cảm giữa vợ chồng. Cũng tại Toronto, một cô vợ tâm sự với tôi là cô không hạnh phúc vì chồng cô giấu giếm điều gì đó. Khi được chồng tỏ bày là anh ta đi hút thuốc ở nơi không có mặt vợ, thì sắc diện nàng rạng rỡ lại. Không nên có bí ẩn giữa vợ chồng. Không có cuộc hôn nhân nào tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại của vợ chồng bạn! Mọi cuộc hôn nhân đều gặp sóng gió. Vì thế nếu nghĩ rằng đổi người hôn phối làm cho bạn được hạnh phúc hơn thì bạn lại gặp phiền toái khác. Một điều tối quan trọng là phải cải thiện việc cảm thông với nhau để xoá đi thất vọng, phá tan hiểu lầm. Hầu như mọi bất đồng đều bắt đầu từ hiểu lầm không đáng kể. Kính trọng Trong đời sống vợ chồng, sự kính trọng quan trọng hơn tình yêu. Tình yêu thuộc cảm xúc, sự kính trọng lại thuộc tầm ý thức cao cả hơn, nó không thay đổi dễ dàng như tình yêu. Khi vợ chồng hết tương kính nhau thì họ soi mói lỗi lầm của nhau. Lúc đó mối thông cảm không còn và thậm chí cuộc hôn nhân sẽ kết thúc. Muốn được kính trọng, ta phải tỏ ra xứng đáng, phải giữ lời giao ước khi gặp nhau buổi đầu khiến đôi bên quyết định sống với nhau. Ai cũng có ưu điểm đáng được kính trọng. Phải trau dồi đức hạnh hay tài năng ấy để mãi mãi được kính trọng vì người chiêm ngưỡng ta là người hôn phối của ta. Đừng than phiền Than phiền hay trách móc đưa hôn nhân đến bờ vực thẳm, dứt khoát không có biệt lệ. Có cô bạn kia trách chồng là sao không lo chăm sóc gia đình, chỉ lo làm việc. Than phiền như thế khiến chồng đi tìm người phụ nữ nào không than phiền để yêu và... ly dị cô. Trong nhiều nguyên nhân gây đổ vỡ thì than trách đứng đầu. Nếu thấy người bạn đời có lỗi thì hãy thành thật nói ra. Than trách xuất phát từ ý định tự bào chữa. Nếu bộc lộ tâm ta với cả tấm lòng thành thật vì lợi ích của người kia thì không phải oán trách mà nhằm gây êm ấm trong mối tâm giao, để trang trí biệt thự tình yêu. Quý mến Hãy giữ thái độ quý mến người bạn đời như lúc còn “e ấp mộng mai sau” dù đã sống với nhau nhiều năm rồi. Đừng quên sự giúp đỡ chân thành của chồng khi bạn đau ốm. Hãy tỏ ra thích thú các món ăn nàng nấu cho bạn mỗi ngày và khâm phục việc nội trợ. Chừng nào kho tàng tri ân chưa cạn thì hạnh phúc hôn nhân cũng không phôi pha. -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#55
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
53. Tâm thanh tịnh
Tháng 10 năm 1984 Ai đâu tặng bạn thanh bình ... Một ngàn năm trăm người đã đi tàu hỏa suốt nhiều ngày đêm. Mỗi toa chứa 80 người, nên có một số phải nằm trên hành lý, đó là vật sở hữu còn sót lại sau cùng của họ... Đây là đoạn mở đầu của cuốn sách “Đi tìm ý nghĩa của đời người”, tác giả là Viktor E. Frankl. Ông viết về các nỗi gian lao lúc sống ở Auschwitz và kết luận rằng bất cứ lúc nào người ta chạm trán với trở lực kinh khủng trong hoàn cảnh cực kỳ rối ren thì lúc đó tự do hiện bày, ngay cả ở Auschwitz cũng vậy. Ông tìm thấy rằng hạnh phúc, bệnh hoạn, đời sống là do ta tạo ra chứ không phải do cha mẹ, bác sĩ, hay chính quyền chịu trách nhiệm. Nếu không tự nhận ra lỗi tại ta như vậy thì không tài nào đạt tới hạnh phúc và sự sung mãn của mình, tiến tới đạt được sự thanh tịnh trong tâm hồn. Ví dụ như có nhiều bệnh nhân ung thư đã nhờ tôi chỉ dẫn cho cách ăn uống, nhưng họ muốn biết họ phải theo thực đơn khắt khe này bao lâu nữa. Rõ ràng họ muốn bỏ rơi thực đơn lúc bệnh chứng lắng dịu. Đây là hậu quả của ý tưởng cho ung thư là do cái gì gây ra chứ không phải do chính họ. Họ đang trốn chạy trách nhiệm. Họ theo cách ăn uống này là vì lời khuyên của tôi, họ muốn trị lành bệnh một cách đơn giản. Cảm nghĩ như thế nên họ ăn thức ăn Thực Dưỡng trong khổ tâm, do đó thức ăn không đem lại đầy đủ lợi ích, dù rằng sức khoẻ có được cải thiện chút ít. Khi thấy bệnh chứng bị đẩy lùi họ ngừng ngay lối ăn kiêng cữ. Rồi thì chẳng bao lâu ung thư lại tái phát, lần này thì quá khó lành bệnh dù bằng pháp ăn Thực Dưỡng. Thường thường kẻ lâm vào tình trạng này hay tìm thuốc men, rồi đành bó tay chờ tử thần. Ngược lại, nếu họ nghĩ được rằng họ phải chịu trách nhiệm về hạnh phúc hay bệnh tật của bản thân, thì tinh thần được ổn định. Nhờ giữ được tinh thần thanh thản nên các cơ quan nội tạng hoạt động tốt, hấp thụ trọn vẹn các chất dinh dưỡng và các bữa ăn đem lại lợi ích tối đa. Học thuyết về trầm uất của Hans Seyle giải thích rõ điều này và Norman Cousins đã áp dụng để tự chữa lành bệnh tật của bản thân. Bác sĩ Seyle trình bày đầy đủ chi tiết về hậu quả tiêu cực đối với việc trao đổi chất trong cơ thể do cảm xúc tiêu cực, điều này làm tôi nảy sinh một câu hỏi: thế thì đối với cảm xúc tích cực thì sao? Nếu cảm xúc tiêu cực làm trao đổi kém cỏi các chất tiêu hóa thì cảm xúc tích cực há không giúp cho sự trao đổi được bổ ích cho cơ thể chăng? Nương theo nhận xét này Cousins đã áp dụng vui cười vào việc trị bệnh và Seyle khuyên nên dùng lòng tri ân như là lối xử thế cần thiết để trị liệu bệnh dồn nén tâm thần. Còn giáo sư Ohsawa bảo rằng niềm tin tuyệt đối vào trật tự vũ trụ sẽ đem ta đến vùng trời số 7 (của tâm an nhiên tự tại). Tâm thanh tịnh cũng cho ta kết quả tương tự, nếu ta nhận trách nhiệm về hành vi, sức khỏe, đau ốm, thành công hay thất bại của ta. Sau tinh thần trách nhiệm, điều kiện giúp ta ổn định tinh thần là không ganh tị (tâm tùy hỉ). Ganh tị là không tùy hỉ (chia vui) với thành công của kẻ khác hay chịu đựng thất bại của mình. Đó là cảm xúc tiêu cực! Chính nó dấy động tâm hồn ta, làm cho ta bị xung động, dễ nổi giận, bối rối và bất hạnh. Lòng ghen tức bàng bạc khắp các chốn bon chen như trong thương mại, thể thao, kịch ảnh và ngay trong giới học giả cũng có cạnh tranh. Bất cứ cuộc tranh đua nào cũng có ghen tức. Vậy muốn tránh tật đó thì đừng cạnh tranh. Tuy nhiên ganh đua cũng là cảm xúc tích cực vì chính nó giúp ta tiến hóa và trưởng thành. Nó không phải là cảm xúc tồi tệ nhưng nó có thể biến thành lòng ghen tị khiến cho tâm hồn dậy sóng. Tâm hồn bình an quan trọng hơn tiền bạc, uy tín, danh tiếng hay thành công trong một lĩnh vực nào đó. Có nhiều người lại đổi niềm an vui tự tại để lấy mấy thứ hào nhoáng. Đó là cái bẫy mà nhiều người ở xã hội thượng lưu, ngay cả các bậc đạo sư vĩ đại nhất cũng sa vào. Khoảng 2.000 năm trước đây, Nhật Bản có hai vị thượng toạ nổi danh: Saicho thuộc môn phái Tandai và Kukai thuộc pháp môn Shingon. Cả hai đều được nhà vua chọn làm môn sinh xuất sắc và được tiến cử sang Trung Hoa trên chiếc thương thuyền nhỏ lúc họ còn rất trẻ. Saicho sáng lập môn phái Tendai trên đường Hiei gần Kyoto. Ông là bậc thầy được mọi người kính nể với nhiều đệ tử xuất chúng mà các vị này thiết lập ba trường phái Phật giáo là: Tông phái Shin của Shinran, tông Tào động của Dozen và tông phái Nichiren của Nichiren. Ngay cả vua chúa cũng thỉnh Saicho để tham vấn. Ngược lại với Saicho, thì Kukai đã thụ giáo Mật tông của Tây Tạng, sau khi sống tận miền tây của Trung Quốc ông dựng nên pháp môn Shingon trên đỉnh đồi Koyo. Ông không đào tạo những đệ tử nổi tiếng mà tự nguyện sống với các nông dân, các dân làng, những kẻ buôn thung bán bưng, các hạng cùng đinh, để chỉ cho họ xây cầu, chống lũ lụt, làm ruộng và các vấn đề thực tiễn cho đời sống. Hai vị cao tăng này là hai mẫu người có cá tính khác biệt, quan niệm triết học, cách hành pháp và trở nên 2 kẻ tranh hùng thô bạo trên nền Phật học Nhật Bản. Họ công khai tranh cãi về Phật giáo. Ngày nọ, Saicho gửi thư cho Kukai với ý định mượn một cuốn sách về Mật tông đã được đưa về từ Trung Quốc... rồi Kukai từ chối cho mượn sách vì lý do này lý do khác, nhưng câu chuyện cho ta thấy rằng khó đạt tới tâm trạng mà trong đó không có lòng ganh đua hay tị hiềm. Vì lý do này mà tiên sinh Ohsawa đã dạy rằng: chúng ta phải chấm dứt doanh thương vào tuổi 40. Thật vậy, tôi từ bỏ thương trường từ lúc trẻ hơn khi còn ở Nữu Ước, vì tôi không thích cạnh tranh. Năm 1956 tôi mở cửa hàng bán lẻ ở trung tâm Mahanttan. Chẳng bao lâu Michio Kushi và các bạn Thực Dưỡng khác cũng mở các cửa hàng. Bè bạn lúc bấy giờ cũng trở thành thù địch vì cạnh tranh. Tôi không thích có cảm xúc mạnh vì tranh giành lợi lộc. Do đó tôi bán cổ đông của tôi cho người hùn vốn với tôi, rồi đến ở California. Từ đó trở đi tôi không còn dính vào sự tranh giành nào nữa. Thái độ này giúp tôi sống ung dung tự tại trong cảnh tĩnh lặng. Theo đuổi danh phận quyền tước dễ sinh lòng tỵ hiềm làm mất tâm thanh tịnh. Lão Tử đã khuyên ta không nên phóng tâm tìm danh phận tức ham muốn địa vị cao sang. “Người đời vướng mắc vào vinh và nhục, buông mình theo dục vọng vị kỷ, thay vì quay về bản giác. Chạy theo danh phận là thế nào? Là bằng mọi cách phải đạt được tiếng tăm và tránh ô nhục. Họ sẽ thối chí khi bị mạ lỵ. Ta nghĩ gì khi bảo thiên hạ đánh giá quá cao tự ngã vị kỷ? Thái độ kiêu ngạo đó khiến họ luôn luôn đối đầu với bệnh. Vậy cái ngã vị kỷ sẽ được lành bệnh - kẻ nào quan tâm đến chân ngã chứ không phải cái ngã phù du sẽ được tín cẩn. Kẻ nào tha thiết với đại ngã chứ không phải cái ngã giả tạm biểu tượng bằng danh tiếng, uy quyền sẽ được người đời quí trọng”. Lão Tử
Đạo Đức Kinh (chương 13) -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#56
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
54. Tinh thần Thực Dưỡng ohsawa
Mùa đông năm 1984 Để hiểu Thực Dưỡng, chúng ta phải hiểu tinh thần của Ohsawa. Tinh thần và suy nghĩ của tiên sinh chịu ảnh hưởng của đạo Bushi hay Võ sĩ đạo, đạo Phật, triết lý âm dương, lời dạy của Ishizuka và tấm gương của mẹ ông. Đạo Bushi Quan niệm của Ohsawa về cuộc đời có từ tinh thần võ sĩ đạo. Tiên sinh dạy hãy sống theo quan điểm tất cả hoặc là không. Tiên sinh tin tưởng và dạy rằng nền tảng của sức khoẻ và hạnh phúc là luôn luôn chịu đựng những thử thách như lạnh và đói. Tiên sinh tin rằng lạnh và đói (cả hai đều là âm) sẽ đem lại sinh lý dương và tinh thần dương, mà sức khoẻ - đó là vũ khí mà chúng ta có thể dựa vào trên con đường tiến tới hạnh phúc trong thế giới luôn đổi thay này. Quan điểm thứ hai của tiên sinh về cuộc sống cũng xuất phát từ đạo Bushi: tiên sinh không chấp nhận xin lỗi. Tiên sinh học quan điểm không bào chữa của võ sĩ đạo từ mẹ ông - không phải là từ người cha của ông, một võ sĩ đạo. Khi còn bé, một hôm, chẳng may mẹ ông làm ông ngã và bị thương tích. Bà chưa bao giờ xin tha thứ cho bất cứ lỗi lầm nào của mình. Bà xin lỗi chồng mình bằng cách chịu phạt. Bà chờ chồng bà trở lại và mong đợi ông trừng phạt bà với cây kiếm võ sĩ đạo. Ohsawa tin rằng việc xin lỗi là nền tảng của văn minh phương Tây - lời giải thích của luật sư, của các hợp đồng, của chính trị và của y học. Tất cả đều là lời bào chữa cho sự xâm phạm luật tự nhiên. Ohsawa dạy rằng nếu ai đó cứ xin lỗi mà mình gây ra sẽ không bao giờ học được bài học từ đó và do vậy sẽ không bao giờ trở thành một con người hạnh phúc được. Tiên sinh trách mắng môn sinh của mình nếu họ xin lỗi. Lối giáo dục này thường làm cho đệ tử từ bỏ tiên sinh. Dù sao, nhiều người hiểu rõ lối giáo dục này sau đó, bởi vì họ học được rằng lời bào chữa hay xin lỗi là sự bảo vệ bản ngã và sớm hay muộn nếu chúng ta sống với sự bảo vệ bản ngã thì chúng ta sẽ không được hạnh phúc. Dù sao, Ohsawa không áp đặt sự giáo dục “không xin lỗi” cho những người phương Tây như người Nhật. Ohsawa biết đó là quá nhiều nếu đòi hỏi họ ngay từ đầu. Quan điểm tiếp theo cũng từ đạo Bushi. Đó là quan niệm về sự công bằng. Tiên sinh suy nghĩ rằng sống với sự công bằng hay tính trung thực tuyệt đối là tầng bậc cao nhất của sức khoẻ. Như vậy công bằng là gì? Theo Ohsawa, công bằng là “biến dịch” - luật của vũ trụ. Điều đó nói lên: thế giới này được cấu thành bởi âm và dương; âm thay đổi thành dương, dương thay đổi thành âm và cứ như vậy. Do vậy, ăn uống dưỡng sinh hay Thực Dưỡng và y học truyền thống là nền tảng của trật tự vũ trụ. Xa hơn nữa, chế độ ăn uống chữa bệnh và toàn bộ phương pháp Thực Dưỡng không là gì khác ngoài cách giáo dục hướng tới hiểu biết sự công bằng tuyệt đối, bao trùm tất cả: tình yêu thương và sự tin tưởng vĩnh cửu. Tiên sinh không quan tâm tới y học chữa trị trên triệu chứng, bởi vì nó không dạy sự công bằng hay hạnh phúc thực sự. Điều mà ông muốn là giảng dạy làm cách nào để con người có thể vươn tới hạnh phúc thực sự. Khi ông ở Pháp, một lần có một thanh niên tới gặp ông. Đó là con trai ông, người lớn lên mà không có cha mình. Anh bị một con rắn độc cắn và đang bị đau. Thay vì an ủi, Ohsawa nghiêm khắc trách mắng anh ta. Ông muốn con trai mình hiểu sự công bằng: sự ốm yếu - đó là sự trừng phạt của Thượng đế cho những ai không tuân theo sự công bằng. Với cùng một lý do, Ohsawa từ chối chữa trị cho người nào đó đã từng một lần được giúp đỡ. Tiên sinh nghĩ rằng sự chữa trị thực sự là tìm hiểu sự công bằng. Nếu ai đó bị bệnh trở lại, điều đó có nghĩa là anh ta không hiểu nguyên nhân, nguồn gốc của bệnh tật. Do vậy, không giúp đỡ họ một lần nữa, bởi vì điều đó không đem tới hiểu biết sự công bằng hay sức khoẻ thực sự. Đây là lối giáo dục của tiên sinh và của Thực Dưỡng. Thiền Phật giáo Lúc còn nhỏ, Ohsawa sống một vài năm ở một thiền viện. Ông chắc hẳn phải nhớ lại cách ăn uống của các nhà sư khi lần đầu ông học cách ăn uống của Ishizuka. Nếu không có kinh nghiệm ở thiền viện thì có lẽ ông sẽ chẳng quan tâm tới cách ăn uống của Ishizuka. Ăn chay của đạo Phật nhấn mạnh đến việc tránh thực phẩm nguồn gốc động vật. Ohsawa lặp đi lặp lại rằng con người có thể sống mà không cần thực phẩm động vật. Nghiên cứu dinh dưỡng hiện nay cũng thừa nhận điều này, nhưng suy nghĩ của ông bắt nguồn từ thuyết dinh dưỡng chứ không phải từ đạo Phật. Triết thuyết Thực Dưỡng chịu ảnh hưởng lớn của đạo Phật. Ví dụ, trong cuốn sách đầu tiên của Ohsawa bằng tiếng Pháp “Nguyên lý vô song”, Ohsawa thường trích những câu từ Tannisho: “Mọi thứ trong thế giới này đều hư ảo, phù du và tương đối, không có thật”. Quan điểm này dẫn ông đi tìm chân lý tự nhiên. Cũng trong cuốn sách này, Ohsawa dịch cuốn Hannya Hara Mitta Shin Gyo, ông miêu tả đặc tính của vô cùng, thực tại và tuyệt đối, hay thế giới của sự không thay đổi - thế giới của chân lý và công bằng. Hai quan điểm này, thế giới tương đối và tuyệt đối, đưa tiên sinh tới quan điểm trật tự của vũ trụ, thống nhất thế giới tương đối và thế giới tuyệt đối. Sáng tạo của tiên sinh trong quan điểm về trật tự của vũ trụ là công việc vĩ đại trong lịch sử loài người. Ohsawa viết khái niệm này lần đầu tiên trong cuốn Trật tự của vũ trụ (hiện đã có bản dịch tiếng Việt - ND), và ông nghĩ đó là cuốn sách quan trọng nhất ông từng viết. Triết thuyết Âm Dương Quan niệm về âm và dương không phải là sáng tạo của Ohsawa, nó là ý tưởng xa xưa của phương Đông. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà ông quan tâm đến quan niệm này hồi trẻ. Ông viết trong cuốn Nguyên lý vô song rằng ông học Kinh Dịch từ một người bạn. Nghiên cứu Kinh Dịch làm ông nhận ra rằng mọi thứ trong thế giới đều biến đổi thông qua trật tự âm và dương. Ông kết hợp thế giới biến dịch của âm và dương với quan điểm của Hannya Shin Gyo về thế giới không đổi. Theo ông, có 6 thế giới âm và dương, và tất cả chúng đều là một thế giới vĩnh hằng. Sau đó, tiên sinh phát triển ý tưởng này bằng cách giới thiệu khái niệm hình xoắn ốc. Tiên sinh sáng tạo ra hình hoạ giải thích thế giới, bắt đầu với vô cùng và xuyên qua phân cực âm và dương; năng lượng; vật chất tiền nguyên tử; khoáng chất; thế giới cây cối và thế giới động vật. Chế độ ăn uống của Sagen Ishizuka Ohsawa bị bệnh lao khi ông 18 tuổi. Các bác sĩ không chữa được, ông phải chữa bằng y học không chính thống. Đó là thời gian ông đọc cuốn sách của bác sĩ Sagen Ishizuka, dạy về ăn uống với lúa gạo và rau quả theo cân bằng K/Na (Kali/Natri). Tuân theo chế độ ăn uống của bác sĩ Ishizuka, Ohsawa chữa được bệnh lao của mình trong 2 năm. Từ đó, Ohsawa giành toàn bộ đời mình để mở rộng giảng dạy của Ishizuka, nó bao gồm 5 nguyên tắc: 1. Thực phẩm là nguồn gốc của cuộc sống; không có thực phẩm thì không có cuộc sống. 2. Thực phẩm chính cho con người là lúa gạo, ngũ cốc. 3. Người ta chỉ nên ăn thực phẩm đúng mùa và được trồng tại địa phương. 4. Thực phẩm không tinh chế và xay xát là thực phẩm cần cho sức khoẻ. 5. Tỷ lệ K và Na phải giữ ở một mức cân xứng. Sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy cách ăn uống của Ishizuka, Ohsawa thay đổi “tỷ lệ K/Na” thành “tỷ lệ âm/dương” và đặt tên cho nó là chế độ ăn uống dưỡng sinh hay Thực Dưỡng. Ohsawa không chỉ là người sáng lập ra phương pháp ăn uống dưỡng sinh mà còn là người tìm ra triết lý và nguyên lý của Thực Dưỡng. ảnh hưởng của người mẹ Một ngày tại hội nghị chuyên đề ở Tokyo, khoảng năm 1963, Ohsawa nói về mẹ mình như nhà giáo dục trong suốt cuộc đời của ông: “Năm 25 tuổi, mẹ tôi ly dị sau 5 năm hôn nhân. Sau đó bà học nghề y tá và đỡ đẻ ở Trường đại học Do Shi Sha để giúp đỡ gia đình. Sau khi tốt nghiệp, bà bận rộn trong việc giúp đỡ những người nghèo khổ và bệnh tật. Chính điều đótác động làm cho tôi tích cực làm việc cho những người nghèo khổ và bệnh tật sau này. Dù sao, trong các tính cách của bà thì tính cách nổi bật nhất là bà không bao giờ phàn nàn về bệnh tật của mình, về thiếu sự giúp đỡ của chồng hay khó khăn về tài chính hay về mọi thứ khác.” “Sau 5 năm làm việc vất vả, bà bị mắc bệnh lao. Có khả năng bệnh lao này là do bà ăn uống theo thuyết dinh dưỡng phương Tây. Khi đã ốm quá nặng, bà gọi 2 con của mình lại giường và nói tôi hãy trở thành học giả bởi vì tôi âm và bảo em tôi trở thành lính bởi vì nó dương. Sau khi nói với chúng tôi về tương lai, bà nằm im lặng khoảng 30 phút, sau đó bà mất. Bà không bao giờ khóc lóc hay phàn nàn, mặc dù bà rất lo lắng về tương lai 2 đứa con của mình, không oán giận sự phản bội của cha tôi hay lo lắng về gia cảnh nghèo túng của gia đình.” “Đây là sự giáo dục. Mọi người thường nói quá nhiều. Như thế thì họ không thể gây ấn tượng đức hạnh hay quan điểm suốt đời tới người khác. Mẹ tôi dạy tôi “đừng phàn nàn” mà không cần nói gì cả, khi bà đang hấp hối. Do đó, tôi theo lời dạy đó 60 năm và bởi sự dạy dỗ này mà tôi có thể thay đổi hàng ngàn người theo Thực Dưỡng. Tôi bây giờ và trong tương lai, đều do ảnh hưởng của mẹ tôi, người đã mất khi tôi lên 10 tuổi”. -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#57
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
55. Nắm Giữ và từ bỏ
Cuộc nói chuyện ở Trại hè Đồng cỏ Pháp Tháng 10 năm 1984 Tôi muốn nói với các bạn về buổi giảng đầu tiên mà tôi đã nghe Ohsawa giảng. Ohsawa dạy tôi về kỷ luật. Tiên sinh tới Nữu Ước vào năm 1959 và bắt đầu giảng dạy năm 1960. Tiên sinh giảng dạy về những con người đặc biệt và thời điểm sinh nhật của họ - Van Gogh, Anatole France, Gandhi, Jesus Christ. Những nhà cách mạng sinh vào tháng 5, cũng như các họa sĩ cũng sinh vào tháng 5 còn những nhạc sĩ sinh vào mùa đông (Van Gogh bị mất trí vì quá dương!). Tôi ghi lại bài giảng khi tiên sinh nói và công bố chúng trên bản tin. Sau đó, tiên sinh trách mắng tôi rất nhiều, bởi vì tôi không sắp xếp lại chúng - tôi xuất bản chúng như những gì tiên sinh giảng dạy - dạng văn nói. Tiên sinh không chấp nhận lời xin lỗi của tôi. Đó là bài học lớn nhất mà tôi nhận được - không xin lỗi gì hết. Tự nhiên không chấp nhận lời xin lỗi nhưng cha mẹ chúng ta lại làm điều đó, vì thế chúng ta lớn lên trong việc học làm thế nào để xin lỗi. Vì vậy, Ohsawa cố gắng để chỉ lỗi của việc chấp nhận khái niệm xin lỗi và lấy xin lỗi làm lá chắn. Nếu chúng ta làm điều đó, thì sự tích luỹ của chúng ta về lỗi lầm sẽ rất lớn. Ohsawa trách mắng môn sinh của mình rất nhiều. Nhưng tôi là người đa cảm - tôi không chịu được la mắng. Tôi thiếu nghị lực để trách mắng ngay khi tôi nhìn thấy sự bất hạnh tới với ai đó. Tôi để họ tự tìm ra cho mình. Trời có mắt mà. Tôi không cần làm điều gì cả. Mọi người đều muốn được nổi tiếng. Không ai muốn là một kẻ tồi cả. Tôi cũng vậy - tôi luôn luôn muốn mọi người thích mình. Tôi không bao giờ nói điều xấu với người khác. Vì vậy không ai không thích tôi. (Nhưng tôi không thích người lười, bởi vì khi họ ở xung quanh, tôi không thể nghỉ ngơi được tý gì). Nhưng tôi khâm phục những người bị căm ghét. Họ rất kỳ lạ, những người rất vĩ đại. Giống như Jesus Christ, những người này là những người rất quan trọng. Nếu bạn thích ai đó thì họ là những người đối lập với bạn. Nếu bạn ghét ai đó, điều đó bởi vì họ giống bạn. Hiểu điều này làm mọi mối tương giao trở nên suôn sẻ. Một lần, tôi sống ở Sacramento. Chúng tôi luôn có khách, kể cả dân lang thang. Cornellia không thích họ - họ làm cho cô ta bận rộn, đặc biệt là những kẻ lười nhác. Một lần, cô ta phàn nàn về một người. Tôi nói: “Tốt hơn cả là chúng ta nên giữ hắn ta lại, bởi vì sẽ không có một kẻ lười khác tới. Trong nhà, một kẻ lười là đủ, như vậy sẽ không có kẻ lười nào khác muốn tới”. Cô ấy hiểu ra và sung sướng giữ anh ta lại. Giống như vậy, nếu bạn bị ốm, đừng chữa trị - chẳng hay ho gì để mà hoàn hảo. Cùng cách đó, mọi người đều muốn một cuộc hôn nhân hoàn hảo và đó là lý do tại sao có quá nhiều cuộc ly dị xảy ra ở đất nước này. Làm cách nào để suy nghĩ đến điều đối lập chính là Thực Dưỡng. Luôn luôn có 2 mặt của một quan điểm. Nếu tầm nhìn này không làm bạn hạnh phúc thì hãy đổi lại cách nhìn khác. Tôi thường thích đi câu cá cùng gia đình, còn gia đình thì lại không mấy quan tâm, vì vậy tôi bỏ thói quen câu cá và sự thích thú đó. Đôi lúc bạn phải nhượng bộ; đặc biệt là với gia đình, bạn phải học nhượng bộ. Trên thực tế, trong cuộc sống, hạnh phúc sẽ tới khi bạn nhượng bộ điều gì đó. Hạnh phúc sẽ không tới khi bạn cứ giữ khư khư ý kiến của mình. Vì vậy, khi bạn bắt đầu ăn uống dưỡng sinh thì bạn sẽ rất hạnh phúc vì bạn từ bỏ ăn thịt và bơ. Sau đó, khi bạn thích ăn gạo lứt và súp misô, bạn lại phải từ bỏ chúng. Nhiều người không hạnh phúc vì họ quá gắn bó với gạo lứt và misô. Khi chữa trị bệnh tật thì bạn phải sử dụng gạo lứt. Không chỉ gạo lứt chữa trị cho bạn mà là cái bạn từ bỏ đã chữa trị cho bạn. Vì vậy, nếu bị ốm lại thì bệnh gần như không thể chữa khỏi vì khi đó bạn chỉ có gạo lứt, misô và tương để từ bỏ! Nếu bạn khắc phục được mối quan hệ này, bạn sẽ rất hạnh phúc. Tôi hút thuốc 20 năm nay, vì vậy tôi từ bỏ nó - bởi vì tôi thích nó. Vì nếu bạn thích chồng của mình, hãy từ bỏ anh ta; khi đó, anh ta sẽ ở với bạn. Nếu không thì bạn sẽ mất anh ta. Và nếu bạn giữ sức khoẻ, bạn sẽ mất nó. Tất cả các bậc thày vĩ đại đều đã một lần rất khốn khổ. Đó là nguyên nhân để họ học cách không gắn bó với bản ngã và đi tới chân ngã. Nếu bạn từ bỏ bản ngã, bạn chẳng mất gì cả. Nhưng điều đó là rất khó. Phần lớn những người bất hạnh mà tôi gặp đều rất bất hạnh bởi vì sự gắn bó này. Tuy vậy, từ bỏ nó lại là điều dễ nhất. Hơn nữa, bạn có thể chỉ làm điều đó nếu bạn muốn, nhưng hãy sẵn sàng để từ bỏ. Phần lớn con người rơi vào thói quen - tôi nên làm điều này hay tôi nên làm điều khác. Hãy giống như nước - nó vừa vặn với bất cứ bình chứa nào bạn rót vào. Nếu tâm trí bạn trong một khuôn mẫu, thì nó bị quá gắn bó. Những gì chúng ta thích đều đối lập với cái chúng ta là. Đây là cách mà mối quan hệ được hình thành. Khi rời khỏi gia đình mình, tôi không nói với mọi người là tôi sẽ làm gì. Nhưng mẹ tôi biết. Bà làm một bữa cơm. Có bánh dày và đường, vì thế tôi đã không ăn gì cả. Đó là bữa cơm cuối cùng bà làm cho tôi. Tôi không bao giờ gặp lại bà nữa. Tôi vẫn hối hận vì đã không ăn. Rồi sau đó, tôi đã ăn bánh với đường nhiều lần - vậy tại sao tôi không ăn món đó của bà? Thật ngu xuẩn. Thật cứng nhắc. Như thế là tôi yêu thích Thực Dưỡng hơn bà hay yêu bản thân mình hơn yêu bà. Vì vậy hãy cẩn thận để luôn luôn tiến tới chân ngã. Xu hướng của Thực Dưỡng là cái đối lập. Đừng bao giờ đánh đổi gạo lứt lấy hạnh phúc. -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#58
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
56. Sức khoẻ thực sự
Tháng 12 năm 1984 Mục tiêu tối hậu của phương pháp Thực Dưỡng là đạt tới sức khoẻ chân chính, hạnh phúc vĩnh cửu và sự công bằng không thiên vị. G. Ohsawa đã chứng minh điều này với bác sĩ Albert Schweitzer. Tiên sinh tự ý bị lây bệnh viêm loét nhiệt đới (một thứ bệnh hủi phá hoại thân thể rất nhanh ở Lambarénée, Phi châu) để chứng tỏ rằng ăn uống đúng phép sẽ chữa lành thứ bệnh mà bác sĩ Schweitzer cho là bất trị (tuần lễ đầu, tiên sinh nhịn ăn, sau đó ăn gạo lứt rang). Theo quan niệm của tiên sinh thì phương pháp Thực Dưỡng nhằm hội nhập với trật tự vũ trụ, với công bằng tuyệt đối. Vào tuổi 39, tiên sinh tìm thấy 6 điều kiện sức khoẻ, 30 năm sau tiên sinh phát giác được điều kiện thứ 7, quý báu hơn 6 điều kiện kia rất nhiều. Bảy điều kiện đó là: Các điều kiện thể chất: 1. Không bao giờ mệt mỏi. Các điều kiện tâm lý: 4. Không nóng giận. Các điều kiện tinh thần: 6. Tri ân mọi thứ, kể cả thất bại. Vì quan điểm có trước hành vi, các điều kiện trên của sức khoẻ là kết quả của quan điểm sống. Ba điều kiện thể chất là kết quả của quan điểm có được do óc quan sát việc ăn uống Thực Dưỡng. Do đó, quan điểm hay thái độ sống sẽ đưa lại cho chúng ta điều kiện thứ tư của sức khoẻ chứ không chỉ là không cáu giận, mà là tâm trạng “tôi sẽ không cáu giận với bất cứ hoàn cảnh nào”. Quan điểm này sẽ mang lại cho chúng ta điều kiện thứ năm của sức khoẻ là không phàn nàn, tự nhận lấy trách nhiệm về mình. Người ta sẽ tự nhận trách nhiệm trong bất cứ trường hợp nào mà không phàn nàn, thậm chí khi mong ước không được thực hiện. Kẻ ấy vẫn giữ an nhiên tự tại ngay cả khi xung quanh là những người thất vọng, thất bại và sự phản đối. Khác biệt giữa Thực Dưỡng và y khoa hiện đại là ở chỗ dám tự nhận trách nhiệm hay không. Theo quan điểm Thực Dưỡng, thì bệnh nhân phải tự chịu trách nhiệm, còn y khoa tân thời thì lại lên án vi khuẩn đã gây bệnh tật. Cho nên những ai không nhận ra lẽ thực là chính họ đã dấy khởi bệnh của họ thì đừng mong bệnh được chữa lành, dù có theo lối ăn uống đúng phương pháp Thực Dưỡng. Nói khác đi, nếu tâm tính không chân chính (không có cái nhìn đúng đắn về cuộc sống - tức là không có “chánh kiến”) thì việc biến dưỡng trong cơ thể, phản ứng hóa chất và chức năng của các cơ quan không đạt được hiệu suất cao nhất. Điều làm cho con người biết quý mến sự vật là luôn luôn giữ cho bụng đói. Khi ta đói ta mới thấy giá trị bữa ăn và nếu nết hạnh này được duy trì, ta luôn luôn biết quí mến mọi sự vật. Nhưng việc gieo mầm đức hạnh thuận với lẽ công bằng không phải dễ, tốt nhất hãy dạy cho đứa trẻ về đức hạnh này trước 6 tuổi. Nói cho rõ hơn là: người mẹ không bao giờ được dối gạt mới tâm truyền được cho con đức hạnh cao quí này. Để thông suốt quan niệm về sức khoẻ chân chính ta phải hiểu rõ rằng, sức khoẻ đó không hiện hữu ở nếp sống tương đối. Có nhiều quan niệm không thể thấy được, nghe được, hay nói được, và lẽ công bằng hay sức khoẻ là thứ quan niệm đó. Tự do, hạnh phúc, đời sống, hòa bình, vĩnh cửu, hòa hợp, thanh liêm, thẩm mỹ và chân lý là tất cả những quan niệm mà chưa ai giải nghĩa cho rốt ráo. Mọi người đều mong thực hiện các ý niệm đó nhưng lại gặp trái ngang, bất hạnh, chết chóc, bệnh tật, cãi vã, chiến tranh, xấu xa, dối trá, sân hận, thù oán, khiến cho họ sau rốt trở thành kẻ vô phúc, tù túng và bất công. Sức khoẻ mà hầu hết mọi người đều mơ ước chỉ tương đối so với bệnh hoạn. Nói rõ hơn, sức khoẻ ấy rồi sẽ luôn luôn trở thành đau ốm, rồi khoẻ mạnh, rồi đau ốm nữa..., như thế sức khoẻ ấy không là mục đích tối hậu; mà mục đích tối hậu của đời người là sức khoẻ vĩnh cửu. Sức khoẻ vĩnh cửu là gì? Chúng ta đạt được không? Xin thưa: được. Sức khoẻ vĩnh cửu gồm sức khoẻ tương đối và bệnh hoạn. Vì gồm cả bệnh tật nên nó gồm luôn vĩnh cửu, viên mãn và chân lý. Ohsawa mắc bệnh viêm loét nhiệt đới và trị lành, đó là sức khoẻ chân chính. Khi khoẻ mạnh bạn bị các món khoái khẩu cám dỗ: kem, hoa quả, bia... Lúc đầu ăn một ít, rồi thêm chút nữa. Nếu sức khoẻ không hề hấn chi, bạn lại dùng thêm lên. Ngày nào đó bạn bị nhức đầu hay đau bụng, lúc bấy giờ sức khoẻ trở thành tương đối và bệnh tật tương đối. Đến độ này bạn không còn yên tâm... Bạn sẽ bị bệnh, và bạn theo phương pháp Thực Dưỡng vì sợ bệnh. Thế rồi bạn là kẻ nhút nhát, bạn không còn khoẻ mạnh nữa... Đấy không phải là mục đích của phương pháp Thực Dưỡng. Mục đích Thực Dưỡng là đạt tới sức khoẻ vĩnh cửu. Sức khoẻ vĩnh cửu gồm luôn sức khoẻ tương đối và bệnh tật tương đối. Biết được rằng bạn có thể bị đau ốm vào lúc nào đó và biết cách cứu chữa là bạn được khoẻ mạnh hoàn toàn. Khi bị bệnh bạn hãy tìm biết được lý do nào chính bạn đã gây ra bệnh và tự quán xét lỗi lầm và tự hứa đừng tái phạm. Nói tóm lại, sức khoẻ chân chính là óc phán đoán hay hiểu biết quy luật của biến dịch, thay đổi. Người nào đã có tư duy này hay tri kiến này thì nhận thức của họ vượt ngoài tương đối. Đó là đời sống vĩnh cửu, sức khoẻ đích thực hay vĩnh cửu, và đó là mục tiêu tối hậu của phương pháp Thực Dưỡng. Vì thế giới vĩnh hằng chỉ là duy nhất, cho nên sức khoẻ vĩnh cửu là cái tên khác của hạnh phúc, chân lý, tình thương hay thanh bình. Khi chúng ta đạt tới hiểu biết này, chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa cuộc sống của mình. Chúng ta hiểu được tại sao chúng ta đến đây, đến nơi gọi là trái đất này. Chúng ta sẽ vui mừng đến vô hạn. -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#59
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
57. Chúc mừng năm mới, 1985
Tháng giêng năm 1985 Phong trào Thực Dưỡng ở Mỹ khởi xướng từ thành phố Nữu Ước, khi George Ohsawa tổ chức hội nghị chuyên đề về Thực Dưỡng vào tháng 1 năm 1960. Từ đó, 1/4 thế kỷ đã trôi qua. Nhân dịp đón mừng năm mới, có thể có giá trị khi nhắc lại tinh thần của Ohsawa - điều đã thúc đẩy tiên sinh bắt đầu để giảng dạy thành Thực Dưỡng. Khi Ohsawa 6 tuổi, cha ông đã bỏ nhà đi theo một người phụ nữ. Một mình chăm sóc Ohsawa, em trai ông và chị gái ông, mẹ ông không biết làm cách nào để tồn tại. Bà đã rối trí. Dù sao, với bà mẹ có ý chí này thì có thể cứu gia đình khỏi tình trạng suy thoái. Bà học làm y tá và đỡ đẻ, sau đó đã nhận được chứng chỉ. Bà làm việc cần mẫn để giúp đỡ những người đàn bà có chửa và ốm yếu. Do làm việc nặng nhọc, bà đã bị ốm. Bà bị nhiễm vi trùng lao từ bệnh nhân. Bà đã sợ rằng bệnh tật có thể lây sang những đứa con của bà, và tình trạng ốm yếu của bà đã làm mất nguồn thu nhập của gia đình. Gia đình bà trở nên nghèo túng đến nỗi không kiếm được cái gì để ăn. Biết trước mình sẽ chết, bà lo lắng cho tương lai của lũ con. Nhưng bà không một lời than vãn và bà cũng không cho phép các con mình kêu than. Bà mất sau 6 tháng chiến đấu với bệnh tật vào ngày 17-6-1903 ở tuổi 32. George Ohsawa lúc bấy giờ được 10 tuổi. Cái chết của bà mẹ là cú sốc khủng khiếp và ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời của ông. Ohsawa hứa với mẹ rằng ông sẽ chiến đấu với căn bệnh đã giết chết người mẹ trẻ, bỏ lại lũ con bơ vơ. Ông biết những điều gây ra khốn khó do sự ốm yếu của mẹ. Vì thế, Ohsawa muốn làm việc trong toàn bộ cuộc đời của mình cho đến ngày không có một bà mẹ trẻ nào còn đau đớn bởi bệnh tật. Đây là tinh thần mà Ohsawa đã đặt nền móng cho Thực Dưỡng. Dù sao, tinh thần của tiên sinh đã khởi đầu cho phương pháp ăn uống dưỡng sinh, nhưng tiên sinh cần trải nghiệm thêm nữa. Tiên sinh đã bị bệnh lao và bệnh tật đã dẫn tiên sinh tìm Sagen Ishizuka cùng chế độ ăn kiêng của ông (ăn uống theo tự nhiên). Tiên sinh đã sớm tự chữa khỏi bệnh lao với phương pháp ăn kiêng đó, tiên sinh quyết định mở rộng tầm hiểu biết về nó sao cho các bà mẹ trẻ bị bệnh như mẹ của ông không phải chết thêm nữa và để họ không phải lo lắng về tương lai con cái họ. Ohsawa đi theo lối giảng dạy vô ngôn của bà mẹ ông - không phàn nàn, học hỏi mọi lúc và chữa trị bệnh tật. Dù sao cũng có sự khác biệt giữa cách làm việc của tiên sinh và mẹ ông. Ohsawa chữa trị bệnh tật theo ăn uống dưỡng sinh, còn mẹ ông thì chữa trị theo khoa dinh dưỡng và y học phương Tây. Ohsawa giúp đỡ người bệnh, nói chuyện, trao đổi và thậm chí điều trị bệnh nhân hơn 20 năm. Tiên sinh chữa trị hàng nghìn người bệnh. Tiên sinh nhận thức rõ năng lực chữa bệnh kỳ lạ của ăn uống dưỡng sinh, trong khi phần lớn các bác sĩ, y tá và người bệnh - những người chữa bệnh bằng ăn kiêng - không nhận ra. Tiên sinh cũng nhận ra sự vô dụng của việc chữa trị bệnh tật, bởi vì luôn luôn có những người bệnh không hết bệnh đối với nhiều cách chữa trị. Sau chiến tranh thế giới thứ II, tiên sinh ngừng việc chữa trị bệnh tật, thay vào đó, tiên sinh bắt đầu giảng dạy triết lý ăn uống, dưỡng sinh và lối sống. Nói cách khác, tiên sinh thay đổi chiều hướng phong trào Thực Dưỡng từ chữa bệnh tật sang giáo dục về ăn uống và triết học. Vì vậy ở Mỹ, tiên sinh bắt đầu giảng dạy điều này, mà không nhấn mạnh vào việc chữa trị bệnh tật. Khi bác sĩ Sattilaro chữa trị ung thư của mình, ông đã nhận ra ăn uống theo Thực Dưỡng là một phương thuốc chữa ung thư. Giờ đây, người ta phần lớn bắt đầu ăn kiêng với mong muốn chữa trị bệnh tật. Đây là trường hợp của Thực Dưỡng ở nước Mỹ ngày nay. Nói cách khác, phong trào Thực Dưỡng ở Mỹ bắt đầu năm 1920, 1930 và ở Nhật năm 1940. Phần lớn người Mỹ không quan tâm tới Thực Dưỡng trừ những người bị bệnh, bởi vì nó có thể chữa khỏi bệnh tật của họ. Vì chính trị ở Mỹ ở thời điểm hiện tại là rất giống với nền chính trị quân phiệt ở Nhật đầu thế kỷ này, nước Mỹ có thể can thiệp vào chiến tranh thế giới thứ III. Thậm chí nếu chúng ta có thể tránh được thảm họa chiến tranh thì thực phẩm cung cấp ở đất nước này cũng có thể làm cho đại đa số người dân nhiễm phải bệnh ung thư. Điều này sẽ xảy ra trong vòng 20 năm nữa, trừ phi lãnh đạo thế giới ngày nay nhận ra tầm quan trọng của sức khoẻ và sự an bình của tâm trí. Những môn sinh Thực Dưỡng, những người sống sót được sau thảm họa (do ăn uống sai lầm và lối sống phi tự nhiên sinh ra) sẽ là những người lãnh đạo của một thời kỳ mới đang tới. Trong bất kỳ trường hợp nào, chúng ta nên ngăn chặn sự tàn phá bằng bất kỳ khả năng nào chúng ta có. Giống như George Ohsawa, người đã không thể ngăn chặn sự tham dự của Nhật Bản trong cuộc chiến thì chúng ta cũng không thể ngăn chặn thảm họa chiến tranh đang tới và bệnh dịch ung thư cũng như những bệnh nan y khác. Vậy tất cả môn sinh Thực Dưỡng hãy nhớ lại tinh thần của Ohsawa và làm việc chăm chỉ để giáo dục mọi người về triết lý Thực Dưỡng và ăn kiêng - nguyên lý của hòa bình. Năm nay đã là một phần tư của thế kỷ sau khi bài giảng đầu tiên về Thực Dưỡng được giảng dạy trên đất nước này. -------------------- The last |
|
|
![]()
Bài viết
#60
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
58. Tai hoạ tiềm ẩn của phương pháp Thực Dưỡng
Tháng 2 năm 1985 Ngày 17-10-1984, tờ Bellingham Herald đã nêu một hỏi: “Một người bạn đã nói cô ấy đọc thấy người ta bảo ăn uống theo Thực Dưỡng có thể chữa khỏi bệnh ung thư. Có bằng chứng để chứng tỏ điều cô ta nói không?” Bác sĩ Jean Mayer, hiệu trưởng trường đại học Tuft và là người có vài bằng tiến sĩ về dinh dưỡng học, trả lời như sau: Không. Trong hồ sơ về Thực Dưỡng có lưu giữ các báo cáo về khả năng chữa trị kỳ diệu của ăn uống, nhưng lại không có bản báo cáo nào mô tả v về tiến trình điều trị bệnh ung thư theo ăn uống, mà cũngkhông có kết quả nghiên cứu tác động của việc ăn uống với mẫu động vật ung thư. Học thuyết Thực Dưỡng về bệnh tật chỉ xem ung thư như là một sự xâm hại một phần của cơ thể để tạo ra sự cân bằng. Nó cho rằng nếu ung thư bị loại bỏ tức thì sự cân bằng toàn thể sẽ bị phá vỡ và sụp đổ. Để đạt được sự hài hòa, theo họ, hiện tượng tự nhiên này không nên bị phá vỡ dù bằng cách loại bỏ hay phá huỷ nó. Thêm vào đó, Thực Dưỡng chủ trương ăn uống là phép điều trị chính cho ung thư. Đây là hiểm họa đích thực. Dinh dưỡng đúng đắn là một việc điều trị phụ cho bệnh nhân ung thư, nhưng không bao giờ là phép chữa trị chính được. Tôi đồng ý với bác sĩ Mayer: ăn uống theo Thực Dưỡng để chữa ung thư là nguy hiểm. Nó nguy hiểm theo nghĩa rằng việc ăn uống hay chữa trị, kể cả phương pháp Thực Dưỡng, cũng tai họa như khi chữa trị ung thư theo lối cổ truyền. Vì chúng tôi không biết nguyên nhân của ung thư là gì, hay cơ chế chính xác của ung thư mà nguyên nhân là các tế bào bình thường thay đổi thành tế bào ác tính và tế bào ác tính phát triển. Cho đến khi chúng tôi biết chính xác nguyên nhân và cơ cấu của sự phát triển ung thư, thì bất kỳ cách điều trị hay chữa bệnh đều là nguy hiểm – kể cả phẫu thuật, chiếu xạ và hóa học. Theo tôi, tế bào ung thư là không thể đảo ngược lại. Nói cách khác, tế bào ung thư không trở lại thành tế bào thường. Một khi tế bào bình thường đã trở thành bất thường, chúng không thay đổi, thậm chí với ăn uống Thực Dưỡng. Vì lý do này, việc chữa trị chính thống là nhằm loại bỏ ung thư hay cố gắng giết tế bào ung thư, còn sự hướng tới của Thực Dưỡng là dừng việc phát triển của tế bào ung thư cho tới lúc chúng chết. Để làm được điều này, Thực Dưỡng cố gắng ngăn các tế bào ung thư phát triển xa hơn bởi việc hạn chế hay giới hạn lượng protein mà ta ăn vào. Vì điều này, bác sĩ Mayer nghĩ ăn uống theo Thực Dưỡng là một trở ngại trong việc chữa bệnh ung thư (“bởi vì bệnh nhân giảm cân có tiên lượng xấu đi, liên quan với sự thiếu hụt calo của chế độ ăn kiêng này ”). Nhưng đây là sự hiểu nhầm của bác sĩ. ăn kiêng theo Thực Dưỡng không chữa trị được ung thư. Chúng tôi chỉ có thể làm ngừng sự phát triển của bệnh. Để làm được điều đó, chúng ta phải giới hạn lượng cung cấp protein, để làm giảm tiến trình phát triển tế bào ung thư. Vì lý do đó mà không thể chữa được bệnh ung thư hoàn toàn, mà vẫn tồn tại nguy hiểm hay thậm chí tai họa trong cách chữa trị hay ăn kiêng. Đó chỉ là vấn đề lựa chọn cách điều trị - cách ăn uống Thực Dưỡng, hay phẫu thuật, chiếu xạ hay hóa học. Cách ăn uống dưỡng sinh là để dừng việc phát triển xa hơn của ung thư, nó có thể là nguyên nhân của sự giảm cân, trong khi mà y học thông thường cố gắng phá huỷ tế bào ung thư mà cũng có cả nhiều tế bào thường khác. Đó là vài lợi điểm trong lối chữa trị truyền thống (thậm chí nó phá huỷ cả tế bào thường) nếu chức năng tiêu hóa và lưu thông của ai đó không tốt, có nghĩa rằng thói quen ăn uống (chế độ ăn kiêng) có thể tiến tới không làm việc tốt. Trong bài báo bác sĩ Mayer nói rằng cácbon hyđrát và chất xơ trong ngũ cốc khó tiêu hóa và hấp thụ đối với bệnh nhân ung thư. Nhưng nếu một người có hệ thống tiêu hoá và tuần hoàn tốt thì ăn uống theo Thực Dưỡng sẽ là tuyệt vời. Dù sao, chúng tôi không quan tâm tới ngay cả điều này để chữa trị, bởi vì chúng tôi không chữa tế bào ung thư. Mục tiêu của Thực Dưỡng là ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư và sự hình thành tế bào ác tính. Xét cho cùng, sự khác nhau giữa Thực Dưỡng và y khoa truyền thống mà bác sĩ Mayer cảm nhận được là đúng, nhưng ông đã không thấy quan điểm về cái mà Thực Dưỡng cố gắng làm. Tóm lại, tôi nói lại rằng ăn uống Thực Dưỡng là ngăn chặn tế bào ung thư chứ không phải là chữa trị. Ăn uống Thực Dưỡng, theo quan điểm của tôi, ngăn chặn tế bào ung thư khá tốt, thậm chí sau khi tế bào đã thành ác tính. Nhưng nó không phải là phương pháp chữa trị. Do vậy không thể so sánh nó với các phương pháp chữa trị khác như phẫu thuật, chiếu xạ, hay hóa học. -------------------- The last |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 18th June 2025 - 10:06 AM |