IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

5 Trang V  « < 2 3 4 5 >  
Reply to this topicStart new topic
> Sự hiểu biết quí báu về ẩm thực, Mỗi Tế Bào Khỏe Mạnh - Nguyên Tố Tạo Kiềm
KinhThanh
bài Jan 28 2011, 03:22 AM
Bài viết #31


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Natri là gì ? N
Khi nói về natri, người ta nghĩ đến muối. Thật vậy, nguồn cung cấp thường xuyên natri là muối.
Vai trò của natri ?
Muối được tìm thấy khắp cơ thể. Người ta gọi đó là “áp lực thẩm thấu”. Nói cách khác, nó không ngừng từ bỏ ý định đi vào trong tế bào. Lượng muối tồn tại bên trong và bên ngoài tế bào sẽ thiết lập nên một trong những yếu tố chính để kiểm soát khả năng phân bố nước. Ở đâu có nhiều muối, ở đó sẽ có nhiều nước, tất nhiên muối có nhiều trong máu, dịch bao quanh tế bào và dịch mô kẽ hơn trong tế bào.
Nếu để muối bên trong màng tế bào, nó sẽ kéo nước vào ngày càng nhiều làm cho màng tế bào bị phù và đưa tới tình trạng ứ nước, cuối cùng sẽ làm vỡ tế bào. Điều này có thể xảy ra khi cũng rất nhiều nước đơn thuần, bị làm mất muối khoáng, cũng giống như vậy, thật sai lầm khi truyền vào cơ thể một lượng lớn dịch nhược trương vì khi đó hồng cầu sẽ dễ vỡ.
Vì vậy, điều quan trọng là tế bào phải có khả năng thải ra những lượng natri dư thừa. Để thực hiện được điều này, phải dùng nhiều chất vận chuyển, chủ yếu nhất là “bơm Natri”, bơm này sẽ đẩy lùi ion natri và đưa ion kali vào thay. Quá trình này xảy ra cần phải có năng lượng, vì bơm natri sẽ tiêu thụ 20% năng lượng được tiêu tốn mỗi ngày, gần bằng não.
Từ đó, người ta hiểu được chính xác tầm quan trọng của muối trong đặc tính giữ nước cũng như phù (do tích nước trong mô) và một vài dạng cao huyết áp động mạch.
Muối là một chất kết hợp với nước, chịu trách nhiệm phân bố nước giữa môi trường bên ngoài và tế bào.
Kết hợp với các ion khác, đặc biệt là bicarbonate, để tham gia vào sự cân bằng một hoạt động được theo dõi chặt chẽ bởi cơ thể và giữa acid và kiềm trong cơ thể, tạo ra pH máu ổn định. Khi sự trao đổi điện tích qua màng tế bào, muối sẽ can thiệp vào quá trình dẫn truyền luồng thần kinh và co cơ.
Thức ăn nào cung cấp natri ?
Nguồn cung cấp đầu tiên natri là thực phẩm :
Không có thức ăn nào không có muối, loại chứa ít nhất là dứa khoảng 0,3mg/100g. Do đó tốt hơn nên tìm những thực phẩm chứa ít muối, tránh những thực phẩm chứa nhiều muối. Cần phải phân biệt.
Thực phẩm ở tình trạng tự nhiên
Trái cây là thực phẩm cung cấp ít nhất cùng với phần lớn rau xanh.
Nguồn tự nhiên của Natri
Sò, thực phẩm tươi sống
Trứng

Thịt
Sữa
Fromage tươi
Rau tươi
Có một vài loại nước khoáng chứa nhiều Natri :
Thức ăn được thêm muối vào
Hàm lượng muối thay đổi đáng kể, tùy theo tiêu chuẩn chọn lựa. Trong những thực phẩm được chế biến công nghiệp (đồ hộp, thịt nguội, fromage…) và đối với thực vật, tùy theo khí hậu, tình trạng nuôi trồng, mức độ chín muối và thời gian dự trữ. Trong số những thực phẩm được ướp muối, ai cũng biết đó là jambon hun khói, thịt nguội, fromage lên men, nước sốt công nghiệp…chứa nhiều muối. Ngoài ra, người ta không nghĩ đến muối cũng như không nhận thấy nó qua khẩu vị, đó là muối chứa trong một số sản phẩm bánh ngọt.
Các muối không nhìn thấy này cũng có mặt ở :
Nước khoáng và một vài nước uống
Một vài loại thuốc
Nước máy
Nguồn thứ hai cung cấp muối là muối thêm vào lúc nấu. Muối trắng, tinh chế mang lại khoảng 3g/100g natri, muối biển nhiều calci, magesi, sắt và yếu tố vi lượng. Tất cả muối đưa vào đều được hấp thu.
Nhu cầu hàng ngày của Natri là bao nhiêu ?
Được ước tính khoảng 800 đến 1600 mg/ngày. Chúng ta tiêu thụ trung bình 4000 đến 6000mg dưới dạng 10 đến 15 muối Nacl, cho nên vấn đề thiếu không đặt ra. Nhìn chung, một nửa natri được tiêu thụ từ các thức ăn tự nhiên, một nửa khác từ muối, được thêm vào khi nấu nướng.
Khi nào thì nhu cầu tăng lên?
Khi nhiệt độ cao, hoạt động thể lực nhiều, ra mồ hôi. Nông dân, người chơi thể thao và những người làm việc kéo dài dưới ánh nắng mặt trời, có thể bị ngất nếu mất muối do mồ hôi và không được bù lại, nhất là những người không có thói quen tiếp xúc.
Lúc bị nôn mửa, đi chảy kéo dài.
Dùng thuốc lợi tiểu hay thuốc xổ không có lý do.
Nó có thể được tăng lên trong một vài bệnh : viêm thận mất muối, bệnh addison.
Muối không tương ứng với nhu cầu nữa
Mức độ tiêu thụ muối hiện nay không tương ứng với tính cần thiết sinh lý. Nó là quá nhiều, vì hai lý do :
Sở thích đối với muối được tạo ra một cách nhân tạo và phát triển từ nhỏ.
Công nghiệp hóa dẫn đến nhu cầu tiêu thụ thực phẩm công nghiệp hóa.
Ngày nay, may mắn thay dùng thực phẩm đông lạnh và tủ lạnh đã làm giảm mức độ sử dụng muối .
1 muỗng café muối = 6g
1 muỗng tráng miệng muối = 13g
1 muỗng canh muối = 25g
Thiếu Natri có biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Ở người khỏe mạnh, thích nghi với khí hậu, hoạt động thể lực trung bình, thiếu muối không gây bất lợi vì thận bình thường giữ lại natri cho cơ thể và kết hợp với một lượng nhỏ được đưa vào bởi thức ăn là đủ để bù lại sự mất sinh lý. Tuy nhiên, khi mất nhiều hay hạn chế muối quá mức sẽ có những dấu hiệu mất nước ngoại bào biểu hiện : khô miệng, chán ăn, mệt, tăng nhịp tim, đôi khi nôn làm nặng thêm vấn đề, co rút cùng với mức độ nặng hơn, nhãn cầu lõm, hạ huyết áp, da khô, nhăn. Những người dễ bị tổn thương khi mất cân bằng này là trẻ em và người già, đặc biệt khi nhiệt độ cao.
Những nhóm nguy cơ
Hạn chế muối cho phụ nữ có thai 3 tháng cuối là một biện pháp cổ điển để chống lại phù và tiền sản giật. Nhu cầu sử dụng muối cần thận trọng khi phát hiện ra có thai, vì nhu cầu tự nhiên của cơ thể về natri tăng cũng đủ khả năng cho phép tăng thể tích máu. Nhu cầu hạn chế natri có thể gây ra thiếu natri trong máu và phù sẽ bù trừ.
Bấy giờ người ta biết rằng, xu hướng giữ nước và muối là sinh lý trong lúc có thai và được điều khiển bởi quá trình tiết estrogen gia tăng. Thể tích máu gia tăng sẽ đi kèm một cách nghịch lý với giảm huyết áp động mạch. Thuốc lợi tiểu thật không cần thiết trong thời gian này vì nó rất có hại. Ngược lại, bổ sung thêm calci và magesi trong lúc có thai cho thấy có khả năng làm giảm cao huyết áp.
Nếu những người béo phải kiêng ăn thì chế độ giảm muối không làm họ gầy đi.
Đặc biệt, rất nguy hiểm khi người già ăn theo chế độ không có muối, ngay cả khi huyết áp họ cao. Phải được dung nạp khi huyết áp cao là một cách bình thường với lứa tuổi, vì nó cần để bù lại mức độ giảm lưu lượng não. Do đó chế độ ăn nhạt sẽ khiến họ có nguy cơ bị các vấn đề thần kinh. Mặt khác, người già sẽ không thích nghi tốt khi thiếu nước và thiếu muối vì muối cần cho sự ngon miệng, chế độ ăn không muối làm giảm sự ngon miệng vốn đã giảm ở người già, tạo điều kiện tăng nguy cơ bị gầy cũng như suy dinh dưỡng ở họ.
Khi nào người ta có thể tăng nhu cầu cung cấp muối lên ?
Khi hạ huyết áp, và các bệnh nhân bị bệnh addison
Trong phần lớn các trường hợp mất muối, đi kèm với mất dịch và một số điện giải khác.
Khi huyết áp cao. Phần lớn mọi người có thói quen ăn nhiều muối.
Không nên tập cho em bé có thói quen ăn mặn, hoặc có thói quen nấu thức ăn mặn
Không nên ăn quá nhiều thức ăn công nghiệp.
Nên uống nước khoáng giàu magesi và calci hơn là nước giàu Natri. Cuối cùng, nên ăn cá và thức ăn biển có chứa ít muối, nhiều dinh dưỡng bảo vệ cùng các rau trái ít natri và giàu kali. Trong trường hợp cao huyết áp, suy tim, xơ gan, có thể sử dụng muối kali thay thế.
Dùng muối khoáng thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không?
Quá liều muối sẽ gây ra hai bệnh :
Những bệnh mà muối làm tăng dịch ngoại bào, phù toàn bộ như : suy tim, một vài bệnh thận, xơ gan.
Khởi phát bệnh cao huyết áp và có khả năng làm nặng thêm.

------------------------------

Kẽm là gì ? Zn
Kẽm là một kim loại thiết yếu tìm thấy trong hầu hết các tế bào. Cơ thể chứa khoảng 2 đến 3 g
kẽm tìm thấy trong xương, răng, tóc, da. gan, cơ bắp, bạch cầu và tinh hoàn. Một phần ba (1/3)
kẽm trong huyết tương gắn lỏng lẻo với albumin, trong khi 2/3 gắn chặt với globulin. Kẽm kích
thích hoạt động của khoảng 100 enzym, là những chất xúc tác phản ứng sinh hóa trong cơ thể.
Kẽm hỗ trợ một hệ thống miễn nhiễm lành mạnh, cần thiết cho vết thương lành lại, giúp bảo vệ
vị giác và khứu giác và cần thiết cho sự tổng hợp DNA. Kẽm cũng hỗ trợ cho việc tăng trưởng và
phát triển bình thường thai nhi trong bụng mẹ, thời kỳ ấu thơ, và thiếu niên.
Thức ăn nào cung cấp kẽm?
Kẽm tìm thấy trong nhiều loại thức ăn. Con hào (oyster) chứa kẽm nhiều nhất trong mỗi phần
ăn, nhưng các giống cùng họ như nghêu, sò ốc hến có thể cũng chứa nhiều kẽm mà chưa ai
nghiên cứu. Thịt đỏ và thịt gà cũng cung cấp nhiều kẽm. Những nguồn thức ăn khác là đậu, quả
hạch (nut), một số hải sản, hạt ngũ cốc chưa chế biến, hay thức ăn cereals đã được gia tăng
chất bổ dưỡng (fortified) và thức ăn biến chế từ sữa. Kẽm được hấp thụ nhiều hơn trong chế độ
dinh dưỡng giàu đạm động vật hơn là đạm thực vật. Chất phytates trong bánh mì làm bằng lúa
mì nguyên hạt, cereals, rau quả có thể giảm hấp thụ kẽm.
RDA là gì?
RDA là từ viết tắt của Recommended Dietary Allowance là lượng yếu tố nên dùng hàng ngày,
chúng ta thường thấy từ này sau lưng chai thuốc đa sinh tố và khoáng chất sản xuất tại Hoa-kỳ.
Lượng kẽm khuyên nên dùng hàng ngày cho trẻ em từ 7 tháng đến 3 tuổi là 3mg và nhiều nhất
là cho các bà mẹ đang cho con bú 14mg mỗi ngày.
Lúc nào có thể thiếu kẽm?
Hầu hết trường hợp thiếu kẽm xảy ra khi lượng kẽm tiêu thụ chưa đủ hay hấp thụ kém, khi tăng
thất thoát kẽm khỏi cơ thể, hay khi nhu cầu cơ thể về chất kẽm gia tăng. Dấu hiệu và triệu
chứng thiếu kẽm gồm lớn chậm, rụng tóc, tiêu chảy, cơ quan sinh dục trưởng thành chậm và bất
lực, thương tổn ở da và mắt và ăn mất ngon. Cũng có bằng cớ là sụt cân, vết thương chậm lành,
vị giác bất thường và chứng ngủ lịm do não bộ có thể xảy ra.
Trường hợp thiếu kẽm trầm trọng được báo cáo ở nhóm người lùn Iran. Những nam thiếu niên
này ăn một lượng lớn đất sét, chậm lớn và chậm phát triển cơ quan sinh dục, thiếu máu, giảm
năng tuyến sinh dục, lớn gan và lá lách, da thô và trí não lừ đừ. Sau khi chữa trị bằng thức ăn
cân đối chứa đủ lượng kẽm trong 1 năm, lông ở cơ quan sinh dục mọc ra, kích thước cơ quan
sinh dục lớn bình thường, bề cao phát triển và da trở nên bình thường. Chứng thiếu máu đáp
ứng với chất bổ dưỡng sắt. Một số người xơ gan bị thiếu kẽm do không giữ được kẽm.
Dấu hiệu sinh hóa đi kèm với thiếu kẽm gồm giảm mức kẽm trong huyết thanh (< 70 mcg/dl
hay <10.7 micromol/L), giảm alkaline phosphatase, alcohol dehydrogenase trong võng mạc
(không thấy ban đêm) giảm testosterone trong huyết tương và hỏng chức năng hoạt động của tế
bào lymphô T, giảm tổng hợp chất tạo keo (collagen) từ đó vết thương không liền được và giảm
hoạt động của RNA polymerase trong nhiều mô.
Vì phần lớn những triệu chứng trên có thể xảy ra ở nhiều bệnh khác, đừng vội kết luận người
bệnh thiếu kẽm khi thấy những triệu chứng trên. Điều quan trọng là nên tham khảo bác sĩ về các
triệu chứng bệnh để được chăm sóc thích hợp.
Ai cần thêm kẽm?
Hiện nay chưa có một xét nghiệm đơn thuần nào đủ để đo lượng kẽm trong dinh dưỡng. Nếu
bác sĩ nghi ngờ thiếu kẽm sẽ xem lại các yếu tố nguy hiểm như ăn chưa đủ số calori cần thiết,
nghiện rượu, bệnh tiêu hóa và triệu chứng như chậm lớn trong giai đoạn thiếu nhi và thiếu niên
khi xác định người bệnh có can kẽm không. Những người ăn chay thường cần thêm 50% lượng
kẽm ở người không ăn chay vì hấp thụ kẽm kém hơn ở thức ăn nguồn thực vật, do đó người ăn
chay nên chọn những thức ăn có lượng kẽm tốt.
Bà mẹ thiếu kẽm sẽ làm cho thai nhi chậm phát triển. Dùng kẽm hỗ trợ có thể làm tăng tốc độ
lớn ở một số trẻ em chậm lớn nhẹ hay vừa phải và đồng thời thiếu kẽm. Sữa người không cung
cấp đủ lượng kẽm cần thiết cho trẻ em từ 7 đến 12 tháng, vì vậy trẻ em bù sữa mẹ phải ăn thêm
thức ăn chứa kẽm hay dùng sữa bột có chứa kẽm. Bác sĩ nhi khoa có thể khuyên dùng thêm kẽm
trong trường hợp này. Bú sữa mẹ cũng làm cạn nguồn dự trữ kẽm ở bà mẹ vì nhu cầu tăng lên
khi cho con bú. Các bà mẹ cho con bú nên chọn thức ăn giàu chất kẽm và các bà đang mang
thai nên theo lời khuyên bác sĩ dùng thêm sinh tố và khoáng chất cần thiết.
Theo một nghiên cứu đăng trên American Journal of Clinical Nutrition số tháng 5/04, mức độ
kẽm ở bà mẹ thấp có thể ảnh hưởng đến xương của hài nhi. Nghiên cứu này thực hiện ở Peru là
quốc gia thường gặp bệnh thiếu kẽm. Họ nghiên cứu 242 phụ nữ mang thai, một nửa dùng
vitamin có chứa kẽm và nửa kia dùng vitamin không có kẽm. Thai nhi của những bà mẹ có uống
thêm chất kẽm xương phát triển hơn ở vùng chậu và xương đùi hơn là thai nhi của các bà mẹ
không uống kẽm. Họ dùng kỹ thuật siêu âm để kiểm soát.
Tình trạng thiếu kẽm thấy ở 30% đến 50% người uống rượu. Rượu làm giảm hấp thụ kẽm và
tăng that thoát kẽm trong nước tiểu. Ngoài ra, nhiều người nghiện rượu không ăn nhiều loại thức
ăn khác nhau, nên lượng kẽm đưa vào cơ thể có thể không đủ.
Tiêu chảy cũng làm mất kẽm. Người nào bị mổ cắt ruột hay dạ dày hay có bệnh đường tiêu hóa
làm kém hấp thụ như bệnh sprue (viêm ruột loét miệng), bệnh Crohn và hội chứng ngắn ruột dễ
bị thiếu kẽm. Người bị tiêu chảy kinh niên cần bảo đảm dùng đủ lượng kẽm cần thiết từ nguồn
thức ăn hay chất hỗ trợ dinh dưỡng. Bác sĩ sẽ đánh giá xem có nên dùng thêm chất hỗ trợ dinh
dưỡng cấp thêm kẽm nếu thức ăn không đủ.
Kẽm, nhiễm trùng và lành vết thương
Hệ miễn nhiễm bị tác dụng nghịch cả khi thiếu kẽm ở mức độ vừa phải. Thiếu kẽm trầm trọng sẽ
đàn áp hệ miễn nhiễm. Kẽm cần thiết cho sự phát triển và hoạt động của tế bào lymphô T, một
loại bạch cầu giúp chống nhiễm trùng. Khi dùng thêm chất hỗ trợ kẽm cho người thiếu kẽm, số
tế bào lymphô T lưu thông trong máu gia tăng và khả năng chống nhiễm trùng cải thiện. Các
nghiên cứu cho thấy trẻ em nghèo và thiếu dinh dưỡng ở Ấn-độ, Phi châu, Nam Mỹ và Đông nam
Á bị tiêu chảy nhiễm trùng trong một thời gian ngắn hơn sau khi dùng chất hỗ trợ kẽm. Lượng
kẽm dùng trong nghiên cứu này từ 4 mg đến 40 mg mỗi ngày và được cung cấp ở nhiều dạng
muối (zinc acetate, zinc gluconat và zinc sulfat). Thuốc bồi dưỡng kẽm thường được cho để giúp
trị loét ngoài da, nhưng không tăng tốc độ lành vết trong khi mức độ kẽm trong cơ thể ở mức
bình thường.
Kẽm và bệnh cảm mạo
Dùng kẽm để chửa bệnh cảm mạo tạo ra kết quả nghịch nhau về mức độ trầm trọng và thời gian
mắc bệnh. Một nghiên cứu trên 100 nhân viên ở Cleveland Clinic cho thấy viên kẽm ngậm giảm
thời gian bị cảm xuống một nửa, mặc dầu không thấy khác biệt giữa thời gian bị sốt và mức độ
cơ bắp bị đau nhức. Những nhà nghiên cứu khác quan sát tác dụng của viên kẽm lên thời gian bị
cảm và mức độ trầm trọng của bệnh cảm trên 400 bệnh nhân được chọn theo lối tình cờ. Trong
nghiên cứu đầu tiên, họ dùng 1 siêu vi gây ra triệu chứng cảm lạnh. Thời gian bệnh ngắn hơn
một cách đáng kể ở nhóm dùng viên ngậm Zn gluconat (hàm lượng 13.3 mg kẽm), nhưng không
thay đổi ở nhóm dùng Zn acetate hàm lượng 5 đến 11.5 mg kẽm Cả 2 dạng bào chế đều không
ảnh hưởng đến mức độ trầm trọng của bệnh trong 3 ngày đầu điều trị. Trong nghiên cứu thứ
hai, quan sát tác dụng viên kẽm lên thời gian và mức độ trầm trọng của bệnh cảm tự nhiên,
không thấy khác biệt giữa người dùng viên kẽm và người dùng giả dược (viên đường). Những
nghiên cứu mới nay đề nghị tác dụng của kẽm có thể được ảnh hưởng do công thức bào chế
đặc biệt cung ứng ion kẽm cho màng nhầy miệng. Cần thêm những nghiên cứu khác để xem
công thức bào chế có tác dụng nào lên chứng cảm mạo không.
Khi dùng kẽm dưới dạng bơm vào mũi hay ngậm kẽm, mục đích không phải tăng mức độ kẽm
trong cơ thể, nhưng để can thiệp vào tác dụng của siêu vi sau cuống họng hay trong mũi. Người
ta thấy chỉ có Zn acetate hay Zn gluconat dùng để chống siêu vi. Một số chất phụ gia trong viên
ngậm như tăng vị ngọt hay tăng mùi thơm có thể ngăn cản tác dụng chống siêu vi của kẽm.
Dextrose, đường, mannitol và sorbitol dùng được, nhưng không nên dùng acid citric và tartaric.
Tác dụng của glycin trong viên ngậm cũng không rõ ráng. Tác dụng chống siêu vi có thể gia tăng
khi phối hợp với các chất chống oxyt hóa.
Kẽm và hấp thụ sắt
Bệnh thiếu máu do thiếu sắt ngày nay được xem là một vấn đề nghiêm trọng của ngành y tế
công cộng. Chương trình tăng thêm chất dinh dưỡng sắt được phát triển để ngừa chứng thiếu
sắt, và đã cải thiện được mức độ sắt ở hàng triệu phụ nữ, hài nhi và trẻ em. Một số nhà nghiên
cứu đặt vấn đề tăng cường sắt có ảnh hưởng đến hấp thụ các chất dinh dưỡng khác không,
trong đó có cả nguyên tố kẽm. Thức ăn tăng thêm sắt không ảnh hưởng hấp thụ kẽm. Tuy nhiên
nếu sắt ở lượng lớn có thể làm giảm hấp thụ kẽm kể cả dung dịch sắt. Dùng thuốc bồi dưỡng sắt
giữa các bữa ăn sẽ giảm thiểu tác dụng hấp thụ kẽm.
Kẽm và thị giác:
Các nhà khoa học biết rằng kẽm giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động bình thường của
rhodopsin, một protein trong mắt liên quan đến chứng viêm võng mạc sắc tố (retinitis
pigmentosa), một bệnh di truyền có thể đưa đến mù mắt.
Nếu không gắn vào kẽm, rhodopsin rất không bền, đó là đặc điểm của chứng viêm võng mạc sắc
tố. Bác sĩ John Hwa ở đại học y khoa Hanover, New Hamshire giải thích. Do đó nồng độ kẽm
trong võng mạc có thể quan trọng trong điều trị chứng viêm võng mạc sắc tố. (Theo báo Hóa
sinh học ngày 20 tháng 8 năm 2004))
Nếu kẽm dư thừa thì sẽ nguy hiểm cho sức khoẻ ra sao ?
Nhiễm độc kẽm đã thấy ở dạng cấp và mãn tính. Dùng 150mg đến 450mg mỗi ngày thường kết
hợp với tình trạng nguyên tố đồng (Cu) thấp trong cơ thể, thay đổi chức năng của sắt, suy giảm
hệ miễn nhiễm, giảm mức cholesterol tốt HDL. Một báo cáo cho biết người bệnh nôn mửa dữ dội
sau khi nuốt 4 gam Zn gluconat (570 mg nguyên tố kẽm). Năm 2001, viện khoa học quốc gia
Hoa-kỳ đưa ra liều tối đa cơ thể có thể chịu đựng được không thấy phản ứng nghịch gọi là mức
độ cao (Upper levels viết tắt là UL). Mức độ cao này không áp dụng cho người uống viên kẽm do
bác sĩ điều trị một chứng bệnh nào đó vì đã có bác sĩ theo dõi.
Nhiễm độc kẽm thường do ăn uống thức ăn chua đựng trong những bình chứa bằng tôn (mạ
kẽm).
Sau đây là mức độ cao cho hài nhi, trẻ em và người lớn:
Tuổi Trẻ em Nam hay nữ Có thai hay cho bú
0 đến 6 tháng 4 mg
7 đến 12 tháng 5 mg
1 đến 3 tuổi 7 mg
4 đến 8 tuổi 12 mg
9 đến 13 tuổi 23 mg
14 đến 18 tuổi 34 mg
19 tuổi trở lên 40 mg

Nhu cầu hàng ngày về kẽm là bao nhiêu?
Lượng kẽm cung cấp được khuyên (mg/ngày)
Trẻ còn bú: 6
Trẻ từ 1 đến 9 tuổi: 10
Trẻ từ 10 đến 12 tuổi: 12
Thanh niên từ 13 đến 19 (nam):15
Thanh niên từ 13 đến 19 (nữ): 12
Người lớn nam:15
Người lớn nữ :12
Phụ nữ có thai:15
Phụ nữ cho con bú: 19
Người già:12

Dạng muối kẽm và liều lượng:
Kẽm có thể ở dạng muối vô cơ hay hữu cơ, nhưng muối có phân tử lượng thấp thường cho một
tỷ lệ kẽm cao và có thể gây cảm giác buồn nôn, do đó nên chọn dạng có phân tử lớn như kẽm
gluconat. Vì nhu cầu tối đa là 14 mg mỗi ngày, nên trong viên đa sinh tố và khoáng chất như
viên Centrum, hàm lượng kẽm 15 mg đủ cung ứng cho nhu cầu hàng ngày khỏi cần uống thêm.
Trường hợp uống để chửa bệnh, liều tối đa kẽm nguyên tố là 40 mg từ đó ta có thể suy đoán
lượng muối kẽm như Zn gluconat hay Zn acetate là bao nhiêu. Nên hỏi người dược sĩ hàm lượng
kẽm trên chai thuốc là kẽm nguyên tố hay muối kẽm, và nên dùng viên có hàm lượng thấp
khoảng 30 mg và trong một thời gian ngắn.

--------------------------------------
Cu - Đồng là gì?
Đồng rất cần thiết cho cơ thể, nhưng với liều rất nhỏ. Dư đồng thường gặp hơn thiếu và rất nguy hiểm.
Đồng tồn tại trong cơ thể từ 75 đến 100mg dưới nhiều dạng khác nhau. Đồng được đi kèm với acid amin hay protein. Đặc biệt, đồng được tập trung trong một vài mô như gan, vùng trên não chịu trách nhiệm thức tỉnh.
Trong máu, hầu như toàn bộ đồng được liên kết với protein, ceruleoplasmin và albumin. Đồng giống như sắt, đều tồn tại tự do, rất nguy hiểm, có thể xúc tác cho quá trình ôxy hóa không mong muốn. Những nghiên cứu mới đây cho thấy rằng, ngay khi đồng được liên kết với ceruleoplasmin cũng có thể trở thành chất tiền ôxy hóa. Do đó, đồng là một trong những yếu tố “con dao hai lưỡi”.
Vai trò của Đồng?
Đồng hoạt động như coenzyme, tổng hợp noradrenalin, chất dẫn truyền thần kinh của khả năng thức tỉnh và chú ý. Đồng cũng là coenzyme cần thiết cho quá trình tạo thành melanin, sắc tố của da, đồng thời can thiệp vào hoạt động chuyển hóa của mô liên kết cũng như tham gia vào chuỗi hô hấp (giống như sắt). Nhưng nếu đồng giống như sắt là một chất tiền ôxy hóa, thì đồng cũng đóng vai trò chống ôxy hóa bằng cách tham gia vào hoạt động của superoxyde dismutase (SOD). Tuy nhiên, để hoạt động của SOD dư hủy bỏ thì lượng đồng trong cơ thể phải thiếu nhiều. Do đó, một lần nữa giống như sắt, nhu cầu dư thừa là vấn đề nguy hiểm hơn thiếu hụt, nhưng thiếu đồng là một trường hợp hiếm xảy ra.
Đồng có thể xúc tác cho quá trình tạo thành các gốc tự do đặc biệt nguy hiểm, đồng có thể tác động như một tác nhân gây đột biến và góp phần phát triển nên ung thư.
Ngoài ra, đồng tương tác với các muối khoáng khác, bằng cách kích thích sự hấp thu và đi vào trong tế bào của sắt, chất này cũng là một tiền ôxy hóa. Đặc biệt, khi thừa đồng, đồng sẽ chiếm chỗ của kẽm trong protein, làm biến đổi hoạt tính của protein tương tự như với protein, làm biến đổi hoạt tính của protein tương tự như với protein chống ung thư P53.
Thức ăn nào cung cấp Đồng?
Gan của bê và cừu
Hàu, hến
Gan bò hay não
Thức ăn biển hay cá
Lúa mì
Đậu nành
Tiêu
Ốc
Nhu cầu hàng ngày về Đồng là bao nhiêu?
Lượng đồng cung cấp được khuyên

Trẻ còn bú: 400 mg/ngày
Trẻ từ 1 đến 3 tuổi: 500 mg/ngày
Trẻ từ 4 đến 9 tuổi: 600 mg/ngày
Trẻ 10 đến 12 tuổi: 800 mg/ngày
Người lớn và thanh niên 13 đến 19: 1000mg/ngày
Phụ nữ có thai hay cho con bú: 1000 mg/ngày
Người già: 1000 mg/ngày

Theo một nghiên cứu được thực hiện trong những điều kiện nghiêm ngặt của chuyển hóa. Với những chỉ số được kiểm soát gắt gao thì nhu cầu cung cấp được khuyên này có thể được ước tính trội thêm, nếu người ta cần thật sự.
Những dấu hiệu thiếu hụt Đồng
Thiếu Đồng, một trường hợp rất hiếm so với thiếu calci, magesi, kẽm, hay sắt. Đồng có thể là nguyên nhân của thiếu máu và những dấu hiệu thường ngoại lệ và không cố định.
Dùng Đồng thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ?
Tăng lượng Đồng trong máu dưới tác dụng của estrogen, thuốc ngừa thai và trong lúc có thai (ở đó đồng gây ra hiện tượng tăng sắc tố do hoạt động tổng hợp melanine) hay dưới ảnh hưởng hoạt động của hệ miễn dịch - nhiễm trùng, viêm hay ung thư - chỉ phản ánh rằng đó là quá trình phân bố lại của đồng trong cơ thể chứ không phải làm tăng đồng toàn bộ.
Đồng gia tăng trong máu có thể gây ra những tác dụng âm tính, giống như ôxy hóa vitamin C.
Khi dùng nhiều gan lợn, nước máy có ống dẫn nước bằng đồng, thuốc lá nhiều đồng, cũng như bổ sung muối khoáng vitamin hay kê đơn kéo dài các yếu tố vi lượng, một trong những nguồn gốc thông thường gây ra thừa đồng. Đồng chỉ được kê khi thiếu thực sự lúc định lượng.

-------------------------------
Manganse là gì ? Mn
Mangan có một vài tác dụng sinh hóa, tương tác với chuyển hóa của đường và calci. Nếu thiếu nó, điều này hiếm - cần phải điều chỉnh. Ngược lại, không thiếu, dùng quá dư thừa sẽ nguy hiểm.
Cơ thể người lớn chứa 10 đến 20 mg. Số lượng mangan nhiều nhất được tìm thấy ở xương, gan, thận.
Vai trò của mangan ?
Mangan hoạt hóa một vài enzyme và có thể can thiệp vào sự ức chế trong một vài tế bào chuyển động của calci. Nó đóng một vai trò không rõ ràng trong sự cân bằng của đường máu và quá trình tổng hợp cholesterol, cũng như tiến trình hình thành bộ xương.
Ngược lại, vai trò của nó quá trình trong tổng hợp urê và trung hòa các anion superoxyde của gốc tự do, trong trung tâm năng lượng của tế bào cùng những lạp thể được biết rõ.
Kênh enzyme được liên quan, SOD, mangan trong ty lạp thể cũng như đồng trong tế bào có vai trò chống ôxy hóa. Ngược lại, giống như đồng khi quá nhiều hoặc không được kiểm soát sẽ trở thành tiền ôxy hóa gây độc. Não dường như đặc biệt nhạy cảm với những tác dụng âm tính của mangan, nó gây ra một vài dạng bệnh parkinson.
Thức ăn nào cung cấp mangan?
Nhiều trong thức ăn, người ta đặc biệt tìm thấy trong ngũ cốc và các dẫn xuất của nó (lúa mì, bắp, gạo, lúa mạch, đậu nành). Rau khô, hạt có dầu, chè.
Hàm lượng mangan trong thực phẩm
Hạnh đào
Lúa mạch
Lúa mì toàn phần
Nho khô
Nhu cầu hàng ngày về mangan là bao nhiêu?
Được ước tính trung bình 8mg/ngày. Thực phẩm cung cấp 6 đến 8 mg/ngày.
Thiếu mangan biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Giống với đồng, thiếu dường như rất hiếm và không đưa đến các dấu chứng biểu hiện. Ngược lại, những dấu ngộ độc được biết nhiều hơn, đặc biệt bằng đường thở ở thợ mỏ, có thể gây ra một bệnh giống với bệnh parkinson. Trường hợp ngộ độc bằng đường miệng ngoại lệ. tuy nhiên, có lẽ dư thừa nhẹ thường gặp hơn thiếu, và dư thừa có những tác dụng xấu. Não của trẻ sơ sinh có khả năng tập trung mangan cao hơn não người lớn sẽ dễ bị tổn thương. Thừa mangan có thể đưa đến đột biến.
Dùng mangan thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ?
Trên thực tế, thân mangan vào phức hợp vitamin - muối khoáng là cần phải xem lại. Mangan cũng như đồng, sắt chỉ được dùng khi thiếu và được chứng minh bởi định lượng. Đối với mangan, kỹ thuật thực hiện định lượng mangan rất khó.
Đưa mangan vào với liều thấp giúp điều trị vi lượng trong nhiều chỉ định không được chứng minh bởi các nghiên cứu. Có lẽ cần thận trọng và giới hạn ở những điều trị ngắn ngày.
BS.PHÙNG HOÀNG ĐẠO (Theo Encyclopédie des minéraux)
----------------------------------------------------------------------------------------------
Ảnh hưởng của mangan đối với cơ thể

Manggan có nhiều trong gạo lức
Hỏi : Tôi được biết trước đây người ta dùng dung dịch thuốc tím kali permanganat để rửa rau sống ăn, vừa có tác dụng khử khuẩn, vừa có tác dụng cung cấp nguyên tố vi lượng mangan cho cơ thể. Mong bác sĩ nói rõ về ảnh hưởng của mangan đối với cơ thể?

Nguyễn Vân (Hà Nội)
Trả lời : Mangan (Mn) là kim loại đầu tiên được Gabriel Bertrand xem như nguyên tố vi lượng cơ bản đối với sự sống. Mn có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể như: tác động đến hô hấp tế bào, phát triển xương, chuyển hóa gluxit, hoạt động của não, cảm giác cân bằng.

Mn có hàm lượng cao trong ty lạp thể làm chất đồng xúc tác cùng các enzym.Hormon tuyến giáp kiểm tra sự di chuyển của Mn. Ngược lại, Mn tác động đến sự chuyển hóa tuyến giáp nhờ được hình thành từ một enzym cơ bản. Mn liên kết với vitamin K tham gia tổng hợp prothrombin ảnh hưởng đến quá trình đông máu.

Mn tham gia tổng hợp protein và tương tác với acid nucleic, tham gia tổng hợp cholesterol. Mn làm giảm glucose huyết nhưng lại tham gia phản ứng tạo ra glucose từ các phân tử khác. Cơ thể rất ít khi bị thiếu Mn.

Trái lại nguy cơ ngộ độc lại dễ xảy ra trong công nghiệp Mn. Kali permanganat có tính ăn da nên có thể gây ngộ độc cấp tính, vì vậy cần thận trọng khi dùng nước pha thuốc tím để rửa rau. Nếu lượng Mn hấp thu vào cơ thể cao có thể gây độc với phổi, hệ thần kinh, thận và tim mạch. Cơ thể người trưởng thành chứa 12-20mg Mn, nhiều nhất ở gan (chiếm 20%) và tụy.

Trong máu hàm lượng Mn là 10mcg/1, tập trung chủ yếu ở hồng cầu; huyết thanh chỉ chứa 0,6-4mcg/1. Nhu cầu hằng ngày của cơ thể từ 2-3mg Mn. Mn được bài tiết qua phân, nước tiểu, tóc. Mn có nhiều trong thực phẩm nguồn gốc thực vật như ngũ cốc, chè, các loại gia vị khoảng 10-100mg/kg.
---------------------------------

Fluoride là gì? F
Fluor không là một yếu tố vi lượng cần thiết thực sự. Điều này không được chứng minh ở người. Nó chỉ được sử dụng để ngừa sâu răng, liều độc rất gần với liều dùng.
luor hoạt động rất mạnh và không tồn tại ở tình trạng đơn thuần. Trên thực tế, ngược với những yếu tố mà bạn đã thấy ở trên chúng cần thiết ở người, fluor không cần thiết cho hoạt động của cơ thể và sức khỏe, nhưng lại cần để có trong răng và xương. Trong cơ thể, chủ yếu là răng và xương chứa khoảng 2 g fluor.
Vai trò của fluor?
Fluor không có vai trò của coenzyme, ngược lại với sắt, đồng và mangan các chất này tham gia vào các phản ứng sinh hóa. Fluor cố định trong răng và khung xương, ở đó vai trò của chúng không rõ ràng. Với liều nhỏ sẽ làm giảm tần suất bị sâu răng. Trong xương, nó tích tụ lại tùy theo mức độ cung cấp vào. Theo một số tác giả, nó làm mạnh thêm xương xốp nhưng lại làm yếu vỏ xương, tức là tăng nguy cơ gãy cổ xương đùi và các xương khác, trừ xương sống. Ngoài ra, với liều thường được đưa vào nó có thể gây nhiễm fluor. Đó là lý do mà chúng ta đặt nó vào yếu tố “con dao hai lưỡi”.
Nhu cầu về fluor là bao nhiêu?
Không thể xác định nhu cầu vì không có phản ứng nào lệ thuộc vào fluor. Chỉ có những lời khuyên dùng fluor để ngừa sâu răng, nhưng những nghiên cứu mới đây nghiên về sử dụng fluor tại chỗ có trong kem đánh răng và nước súc miệng hơn là bổ sung fluor bằng đường uống.
Nguồn cung cấp về fluor thế nào?
Fluor có trong một vài loại nước khoáng, chè, muối, trong kem đánh răng, nước súc miệng, và trong một vài loại nước. Trong nước máy người ta cũng thêm fluor vào, nhưng điều này còn bàn cãi.
Dấu hiệu thiếu fluor ra sao?
Những lưu ý về thiếu không tồn tại vì nhu cầu không được xác định. Ngược lại, dư thừa fluor là thường gặp
Dấu hiệu thừa ở :
+ Men răng: xuất hiện các vết sắc tố, những vết này hiếm và nhỏ nếu nhẹ, nhiều, nâu và xấu nếu nặng. Nó có thể xuất hiện các lỗ.
+ Xương: trở nên quá đậm và quá yếu, hình ảnh trên xương giống với hình ảnh của bệnh Paget, biến dạng chi và cột sống.
Ngoài ra, fluor cho thấy là chất ôxy hóa mạnh, hoạt tính mạnh hơn ôxy vì vậy, nó có những tác dụng âm tính khác.
Nguy cơ quá liều
Có nhiều ý kiến khác nhau về liều độc: 5mg. Nguồn gốc của những dấu ngộ độc mạn tính không bàn cãi nữa ở những công nhân mỏ hay những vùng nước uống giàu fluor. Theo Moan, nhiều fluor xuất hiện với liều hàng ngày trên 3mg, và nhìn chung từ 4 đến 5mg. Hoạt động âm tính lên xương ở những vùng mà nước chứa từ 10 đến 30mg/l, sau thời gian tiêu thụ tối thiểu từ 10 đến 15 năm.
BS.PHÙNG HOÀNG ĐẠO (Theo Encyclopédie des minéraux)
---------------------------------

Selenium là gì ? Se
Selen không hoàn toàn là một kim loại giống như các yếu tố khác trước đây. Nó được mô tả gần giống với kim loại tiêu biểu là lưu huỳnh. Cơ thể chứa từ 3 đến 15mg, tùy theo sự phong phú của đất ở từng vùng.
Vai trò của selen?
Selen đầu tiên là chất khử độc. Nó có khả năng liên kết với các kim loại nặng như thủy ngân và đào thải các kim loại nặng ra nước tiểu. Selen cũng bảo vệ cơ thể khỏi tác hại của cadimi, chì, đồng, bạc, platin và arsenic. Ngoài ra, bằng cách hợp tác với glutathion, selen góp phần giảm độc tính của nhiều chất khác.
Nhưng sự tham gia của nó vào hoạt động của một men chống ôxy hóa, glutathion peroxydase, hay GPX, khiến nó trở nên có vai trò sáng chói. Enzyme này trung hòa nước có oxy trước khi tạo thành các gốc tự do có hại, dưới sự hiện diện của sắt hay đồng. Nó cũng là enzyme duy nhất có khả năng tái sử dụng acid béo bị hư hỏng do các gốc tự do. Đặc biệt ở mặt màng tế bào.
Từ các acid béo bị oxy hóa này mà các chất trung gian của viêm, dị ứng và ngưng tập tiểu cầu được tạo thành.
Do đó, selen cũng có vai trò trong hoạt động thay đổi dịch của máu và các đáp ứng miễn dịch. Trong những chức năng chống viêm là làm loãng máu, nó tác động hiệp đồng với glutathion, vitamin E và các acid béo không no.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng cung cấp tối đa selen sẽ làm giảm tần số của bệnh tim mạch và ung thư.
Gần đây, người ta đã phát hiện ra ở Écosse, công cụ sinh hóa cho phép hoạt hóa các hormon tuyến giáp, cũng lệ thuộc vào selen.
Nguồn thức ăn nào cung cấp selen?
Selen được kết hợp với protein. Do đó, người ta tìm thấy nó trong thịt, cá, trứng và ngũ cốc. Tuy nhiên, hàm lượng thức ăn lệ thuộc vào đặc tính phong phú của đất có selen.
Selen chủ yếu có từ chất phun ra khi có núi lửa. Từ vùng này đến vùng khác, đất có thể thay đổi và lượng selen sẽ thay đổi gấp 1000 lần hay ít selen.
Nhu cầu hàng ngày về selen là bao nhiêu?
Theo các chuyên gia, liều tối ưu vào khoảng 200mg/ngày.

Trẻ còn bú: 15mg
Trẻ từ 1 đến 3 tuổi: 20 mg
Trẻ từ 4 đến 9 tuổi: 30 mg
Trẻ từ 10 đến 12 tuổi: 40 mg
Thanh niên từ 13 đến 19 (nam): 60 mg
Thanh niên từ 13 đến 19 (nữ):55 mg
Người lớn nam: 70 mg
Người lớn nữ: 55 mg
Phụ nữ có thai: 60 mg
Phụ nữ cho con bú: 75mg
Người già : 70 mg

Thiếu selen biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Thiếu nặng, biểu hiện bằng bệnh cơ tim. Thiếu nhẹ, không có triệu chứng gì đặc biệt. Tuy nhiên, nó góp phần làm xuất hiện các tổn hại tế bào quan trọng cũng như thúc đẩy quá trình lão hóa và nguy cơ mắc các bệnh thoái hóa. Vấn đề tương tự khi quan sát dưới vitamin E, carotenoid và những chất béo khác. Do đó, giá trị của việc thực hiện định lượng một cách hệ thống những thiếu hụt các yếu tố sinh học bảo vệ được xác định.
Những nhóm nguy cơ thiếu selen?
Một vài đất nước có mức độ cung cấp đưa vào từ thức ăn cao, một số nước khác thì ngược lại.
Một vài nhóm có nguy cơ thiếu selen là: người già, người tiếp xúc với ô nhiễm, người hút thuốc lá, uống rượu nhiều, người bị viêm, bệnh gan, suy thận, loạn dưỡng cơ, mucovisidose.
SELEN VÀ UNG THƯ
Selen bảo vệ chống lại nguy cơ ung thư. Nó được đi kèm với hoạt tính của enzyme loại bỏ peroxyde và ngăn chặn cấu trúc của hồng cầu bởi ôxy hóa. Tính hiệu quả khi chống lại nhiều tác nhân gây ung thư ở chuột, nó bảo vệ chuột khỏi u đại tràng và vú.
Ở Trung Quốc và Phần Lan, tần suất ung thư tăng lên tại các vùng đất nghèo selen.
Trường hợp nào nên dùng selen?
Selen, giống như vitamine E, vitamine C và một vài carotenoid cùng những chất chống oxy hóa khác, xuất hiện giống nhau khi bổ sung tạo cân bằng hàng ngày, hướng tới điều chỉnh các giới hạn kỹ thuật và của thực phẩm, giống như iod.
Những nhóm nguy cơ trên đây phải được bổ sung và theo dõi hơn các nhóm khác, vì nguy cơ tăng hơn.
Đôi khi, selen cũng được sử dụng cao hơn liều dinh dưỡng, trong sự điều chỉnh thiếu hụt được phát hiện bởi định lượng hoặc chưa bị lão hóa, mắc một vài bệnh viêm, dị ứng hay tự miễn, một vài bệnh tim, cơ, gan và thần kinh.
Nhiều công trình chỉ ra rằng, không chỉ selen với liều dinh dưỡng mới có thể góp phần phòng ngừa ung thư, mà ở liều dược lý nó có thể được sử dụng để điều trị một vài bệnh ung thư, bao gồm di căn, đồng thời đề kháng với điều trị hóa chất và phóng xạ.
Trong những trường hợp này, selen với liều cao có thể làm giảm sức đề kháng của các ung thư với các phương pháp hóa trị liệu và xạ trị. Những điều trị này phải được kê và theo dõi bởi bác sĩ, nhà dinh dưỡng trị liệu. Những công trình mới đây cho thấy rằng, selen phải được đưa vào cho bệnh nhân ở khoa hồi sức.
Dùng selen thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không?
Độc tính có thể xuất hiện đối với việc kéo dài liều từ 10 đến 20 lần cao hơn liều dinh dưỡng. Nó biểu hiện bằng hơi thở và mồ hôi có mùi tỏi hoặc móng và tóc dễ gãy, hay kích thích da đầu.
SELEN VÀ BỆNH TIM - MẠCH
Ở động vật, cũng như ở người, thiếu cung cấp selen và vitamin E sẽ gây ra bệnh tim thoái hóa.
Ở Trung Quốc, thiếu cung cấp selen đã gây ra bệnh cơ tim cho trẻ em thậm chí đôi khi gây tử vong. Bệnh này nhạy cảm với sự điều trị bằng selen.
Ở Phần Lan và Tân Tây Lan, những thăm dò cho thấy rằng, tử vong vì bệnh tim mạch sẽ cao hơn trong trường hợp thiếu selen.
Selen là một chất tạo thành glutathion peroxydase, một men đóng vai trò trong sự bảo vệ một vài phân tử chống lại nước ôxy già được sinh ra từ các phản ứng peroxyde hóa. Thiếu selen cũng làm tăng ngưng tập tiểu cầu của máu và biến đổi mỡ trong thành động mạch, hai cơ chế chính dẫn đến xơ vữa động mạch.
-----------------------------

Iốt: Cần rất ít nhưng không thể thiếu ( I )

Trong cơ thể, iốt là một khoáng chất vi lượng, ít hơn lượng sắt 100 lần. Nhưng cái phần ít ỏi ấy lại có thể quyết định đứa trẻ thông minh hay trì độn, nguyên lành hay dị tật. Chế độ ăn hiện nay thường không đủ iốt.

Nhu cầu iốt của cơ thể được tính bằng microgam (mcg) nhưng nếu thiếu nó, nhiều biểu hiện bệnh lý quan trọng sẽ xuất hiện, đặc biệt là bệnh lý tuyến giáp. Trong cơ thể, trên 75% iốt được tập trung ở tuyến giáp để tổng hợp hoóc môn giáp trạng. Phần còn lại được phân bố trong các mô khác như nước bọt, tuyến vú, dịch tiêu hóa và thận.

Hoóc môn tuyến giáp T3 (tri-iodothyronin) và T4 (thyroxin) đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa phát triển cơ thể. Nó kích thích tăng quá trình chuyển hóa tới 30%, tăng sử dụng ôxy và làm tăng nhịp tim.

Khi nồng độ iốt trong máu thấp, tuyến yên được kích thích bài tiết một hoóc môn kích giáp trạng là TSH. Chất này được đưa tới tuyến giáp để "bắt" nó làm việc nhiều hơn nhằm tổng hợp thêm hoóc môn giáp trạng. Hậu quả là tuyến giáp to lên, gây ra bướu cổ. Đó là loại bướu cổ đơn thuần.

Việc thiếu iốt trong thời kỳ thiếu niên không chỉ gây ra bướu cổ mà còn dẫn đến đần độn, chậm lớn, nói ngọng, nghễnh ngãng. Phụ nữ mang thai nếu thiếu iốt có thể bị sẩy thai, thai chết lưu, đẻ non. Khi thiếu iốt nặng, trẻ sinh ra có thể bị các khuyết tật bẩm sinh như điếc, câm, lác mắt hoặc tinh thần trì trệ.

Nhu cầu iốt :

150 mcg/ngày đối với người trưởng thành
175 mcg/ngày cho phụ nữ có thai
200 mcg/ngày cho bà mẹ nuôi con bú.

Một liều lên tới 1.000 mcg/ngày có thể coi là an toàn. Các nghiên cứu cho thấy, hầu hết địa phương hiện đều bị thiếu iốt. Cần bổ sung chất này qua muối iốt và thực phẩm, nhất là loại có nguồn gốc từ biển.

Sau đây là lượng iốt có trong 100 g thực phẩm:

- Muối iốt: 555 mcg.

- Rau dền: 50 mcg.

- Nước mắm: 950 mcg.

- Rau cải xoong: 45 mcg.

- Cá thu: 45 mcg.

- Nấm mỡ: 18 mcg.

- Cá trích: 52 mcg.

- Khoai tây: 4,5 mcg.

- Bầu dục: 36,7 mcg.

- Súp lơ: 12 mcg.

-Người ta ước tính trong 100g hải đới ( rong biển Kombu )có tới 24mg iốt
-Trong 100g thịt con Hàu có chứa tới 70-100mg iốt và kẽm
-Trong 100g sứa khô có 132 microgam iốt.
-ước tính trong 100mg Tử Thái ( tảo tím , có thể là loại rong biển NORI màu tím )có 1,8mg iốt
-Trong 100g thịt ngao khô có tới 240 microgam iốt.
-Nghiên cứu hiện đại cho thấy, trong 100g hồng xanh có chứa tới 49,7mg iốt.
-Theo dinh dưỡng học hiện đại, trong 100g côn bố có tới 0,28g iốt. http://www.baophuyen.com.vn/portals/0/quan...THUOC/CONBO.HTM
-1 kg tôm biển có 6mg iốt
-1 kg cá ngần tươi có 80 microgam iốt
-1 kg cá chim có tới 120 microgam iốt
http://www.tamthuocsapa.com/ae622/Cham-soc...-thieu-iot.html

Cần chú ý cách bảo quản, chế biến để giảm sự hao hụt iốt; chẳng hạn như để muối iốt trong túi nhựa kín, không phơi nắng, không để gác bếp. Khi nấu thức ăn gần chín mới cho muối vào.

BS. Phạm Thị Thục, Sức Khỏe & Đời Sống
Go to the top of the page
 
+Quote Post
KinhThanh
bài Jan 28 2011, 03:49 AM
Bài viết #32


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Vitamine C là gì ?
Vitamine C, hay còn gọi là acid Ascorbic, là một chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, có chủ yếu trong trái cây và các loại rau củ. Vitamine C tham gia vào thành phần cấu tạo của xương, da và thành mạch. Cũng như các vitamine khác, vitamine C là một hợp chất hữu cơ. Hợp chất hữu cơ là từ chỉ các chất tham gia vào các hoạt động chuyển hoá trong một cơ thể sống và trong thành phần cấu tạo có carbon và oxy.
Acid Ascorbic là một vitamine tan trong nước, hầu như không thể dự trữ trong cơ thể trừ một lượng rất nhỏ, vì vậy cơ thể cần được bổ sung vitamine C mỗi ngày.
Vai trò của vitamine C trong cơ thể ?
Vitamine C giúp cho việc sản xuất ra collagen, đây là một protein cần thiết cho việc hình thành và bảo vệ răng, lợi, xương, sụn, các đĩa sống (các đĩa sụn nằm giữa các đốt sống), các dây chằng, thành mạch và làn da. Ngoài ra, acid này còn đóng nhiều vai trò quan trọng khác :
- giúp vết thương mau lành.
- tăng sức đề kháng, tránh nhiễm khuẩn.
- ức chế một số độc chất như khói thuốc lá, và một số chất sinh ung trong thực phẩm chúng ta ăn hàng ngày.
- có khả năng làm giãn mạch vì vậy làm giảm nguy cơ tăng huyết áp và các bệnh tim mạch.
- giúp điều hòa lượng cholesterol trong máu.
- giúp ngăn ngừa bệnh scurvy (bệnh scorbut hay bệnh hoại huyết), đặc trưng bởi tình trạng mệt mỏi, thiếu máu, sưng khớp, sưng nướu và chảy máu chân răng. Trước đây bệnh thường gặp ở những thủy thủ đi biển lâu ngày vì họ không được ăn rau củ tươi và trái cây. Nhiều thủy thủ đã chết vì bệnh này. Ngày nay, bệnh rất hiếm gặp.
- giảm nguy cơ mắc bệnh đục thủy tinh thể - thủy tinh thể của mắt bị mờ đục làm bệnh nhân nhìn không rõ, thường do lão hóa, hoặc do một số bệnh biến dưỡng gây nên.
- có thể hạn chế hay phòng tránh các biến chứng của bệnh tiểu đường lên thận, mắt và hệ thần kinh.
- có thể giúp hạn chế bị cảm lạnh (hạn chế bị nhiễm một số loại virus gây bệnh ở đường hô hấp), tuy nhiên điều này chưa được khẳng định và còn nhiều tranh cãi.
- giúp hấp thu chất sắt.
- giảm hàm lượng chì - một loại chất độc trong cơ thể.
Thức ăn nào có chứa vitamine C ?
Các loại trái cây : cam, chanh, quýt, bưởi, đào, chuối, đu đủ,

dâu tây, xoài,

dâu tằm, trái kiwi, thơm, dưa hấu, trái mâm xôi, trái nham lê (cranberry), bí đỏ, trái hồng, quả anh đào..
Rau củ : măng tây, bông cải, ớt tây đỏ và xanh (hay gọi là ớt Ðà Lạt), bắp cải, cải xoăn, khoai tây, khoai lang, khoai từ, quả bầu bí, các loại đậu, củ cải trắng, hành củ, bắp, bí ngô, cà rốt, cần tây, bắp cải muối.
Thảo mộc : củ tỏi, xà lách xoong.
Một số thực phẩm khác như :sữa, thịt (nhưng với hàm lượng nhỏ)
Nhu cầu vitamine C hàng ngày (tính theo miligram) là bao nhiêu?

Trẻ sơ sinh đến 1 tuổi : 30 - 35 mg.
Trẻ từ 1 đến 3 tuổi : 40 mg.
Trẻ từ 4 đến 10 tuổi : 45 mg.
Phụ nữ có thai : 75 - 90 mg.
Phụ nữ đang cho con bú : 75 - 90 mg.
Người hút thuốc : 100 mg.

Bệnh nhân bị tiểu đường, người già, bệnh nhân bị stress và dị ứng : có thể dùng tới 200 mg một ngày tuỳ theo toa của bác sĩ.
Trung bình, người khoẻ mạnh cần 60 mg, ngoại trừ một số chỉ định riêng.
(1 mg = 1/1000 g 1g = 0.0353 ounce)
Thiếu vitamine C có thể gây bệnh gì?
Thiếu vitamine C có thể bị bệnh SCORBUT (hình)

Dùng qúa liều vitamine C có sao không?
Dùng quá liều vitamine C, bạn có thể bị tiêu chảy, buồn nôn, ngứa da, tiểu buốt tiểu gắt, tăng thải trừ chất đồng ra khỏi cơ thể.
Có nhiều bằng chứng cho thấy, hấp thu nhiều vitamine C làm tăng nguy cơ lắng đọng tại thận và gây sỏi thận. Những bệnh nhân bị dư thừa sắt (Fe) trong cơ thể như bệnh thiếu men glucose-6-phosphate dehydrogenase (men G6PD) (một bệnh di truyền, làm màng hồng cầu kém bền, hồng cầu dễ vỡ, phóng thích sắt vào trong máu) hay do những nguyên nhân khác, nên cẩn trọng khi sử dụng vitamine C vì nó có tác dụng tăng hấp thu sắt (nếu quá nhiều sắt trong cơ thể sẽ thâm nhiễm vào các cơ quan khác gây tổn thương các cơ quan trong cơ thể).
Ngộ độc vitamine C :
Trong phòng thí nghiệm, người ta đã ghi nhận vitamine C có thể làm tăng tổng hợp các chất gây độc cho gen (ADN). Nếu những chất này được tạo ra với một lượng nào đó, nó có thể gây đột biến gen, từ đó phát triển bệnh ung thư.
Tương tác thuốc :
Acid ascorbic có thể gây một số tương tác khi dùng chung với một số thuốc. Vì vậy khi dùng vitamine C, bạn nên cần thận đọc kỹ hướng dẫn dùng, các chỉ định và chống chỉ định in trên bao bì.
......................................

Vitamin B1 là gì ? Thiamin
- Vitamin B1, hay thiamin cũng được gọi là anerrien. Nó giữ vai trò hàng đầu trong chức năng của hệ thần kinh trung ương và ngoại biên.
Vai trò của vitamin B1 là gì ?
Mặc dù chỉ tham gia vào hoạt động của một vài men nhưng vitamin B1 vẫn đóng một vai trò chủ yếu.
Ðối với hệ thần kinh : Vitamin B1 là một chất chuyển vận thần kinh có dẫn truyền xung động thần kinh tại hệ thần kinh trung ương (não, tủy sống) cũng như hệ thần kinh ngoại biên (mạng lưới thần kinh nối liền hệ thần kinh trung ương với cơ và các nội tạng). Vai trò của B1 cũng rất quan trọng trong chức năng của cơ nói chung và tim nói riêng, cũng như đối với trí nhớ.
Ðối với tế bào : Vitamin B1 giữ vai trò chủ đạo trong chuyển hóa năng lượng, nhất là chuyển hóa glucid, vitamin B1 cho phép và điều hòa khả năng sử dụng glucid. Nếu tổ chức thiếu vitamin B1 thì khả năng chuyển hóa glucid sẽ không đủ và glucose, thức ăn chính của tế bào thần kinh cũng bị thiếu.
Vitamin B1 không tác động trực tiếp, nhưng giống như tất cả các vitamin nhóm B, nó được chuyển đổi thành coenzym, đặc biệt nhờ quá trình can thiệp của magesi.
Thức ăn nào cung cấp Vitamin B1 ?
Phần lớn thức ăn đều mang lại Vitamin B1, nhưng với hàm lượng thấp. Trước đây, Vitamin B1 được cung cấp bởi bánh mì, mà nhu cầu tiêu thụ bánh mì ngày nay giảm nhiều. Ngoài ra, Vitamin B1 bị mất đi trong quá trình chế biến: có 0,25mg Vitamin B1 trong 100g bánh mì toàn phần và chỉ 0,08mg B1 trong bánh mì trắng.
Nguồn tự nhiên của Vitamin B1
Thực phẩm:
Mầm lúa mì
Thịt heo nấu
Bột đậu nành

Hạt dẻ
Gan
Bánh mì toàn phần
Ngũ cốc toàn phần
Khoai tây
Nhu cầu hàng ngày về Vitamin B1 là bao nhiêu ?
Nhu cầu về Vitamin B1 không cao về số lượng nhưng phải được cung cấp hàng ngày để thỏa mãn nhu cầu cần thiết, vì Vitamin B1 không dự trữ được trong cơ thể.
Nhu cầu này tùy theo năng lượng toàn thể được đưa vào cơ thể, nhất là mức độ cung cấp glucid. Khẩu phần ăn càng nhiều đường thì nhu cầu về Vitamin B1 càng tăng, cần thiết để đồng hóa thức ăn. Nhu cầu Vitamin B1 tăng trong những trường hợp :
Uống nhiều rượu thường xuyên, rượu làm giảm đáng kể khả năng sử dụng cơ thể.
Uống nhiều café.
Không đủ Vitamin B1 do quá trình hấp thu kém (ỉa chảy mãn tính).
Ở người già.
Lượng Vitamin B1 được khuyên cung cấp
Loại mg/ngày

Trẻ còn bú : 0,4mg/ngày
Trẻ từ 1-3 tuổi: 0,7mg/ngày
Trẻ từ 4-9 tuổi: 0,8mg/ngày
Trẻ từ 10-12 tuổi: 1,2mg/ngày
Thanh niên 13 đến 19 tuổi Nam: 1,5mg/ngà
Thanh niên 13 đến 19 tuổi Nữ: 1,3 mg/ngày
Người trưởng thành Nam: 1,5mg/ngày
Người trưởng thành Nữ : 1,3mg/ngày
Phụ nữ có thai hay cho con bú: 1,8mg/ngày

Thiếu Vitamin B1 biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Những triệu chứng sớm :
- Giảm khả năng thể lực
- Vụng về
- Giảm trí nhớ
Thiếu Vitamin B1 nhiều, đưa đến bệnh Béribéri. Béribéri có những biểu hiện khác nhau tùy theo tuổi và thức ăn, có thể biểu hiện bằng chứng rối loạn thần kinh, suy tim, phù hay bệnh não.
Thiếu một phần Vitamin B1 sẽ biểu hiện các triệu chứng : mất trọng lượng, chán ăn kéo dài, dễ kích thích, biến đổi thể trạng cùng với mệt mỏi tăng dần, rối loạn thần kinh ở các chi, tổn thương hệ thần kinh trung ương (khó tập trung, hay quên, trầm cảm) rối loạn dạ dày và suy tim..
Những ai dễ bị thiếu Vitamin B1 ?
Thiếu Vitamin B1 thường gặp một số nhóm người :
Nghiện rượu mãn tính.
Suy dinh dưỡng, đặc biệt những người lớn tuổi mà khẩu phần toàn bộ giảm, những người ăn chủ yếu thức ăn đường (càng ăn nhiều glucid nhu cầu B1 càng tăng) và những người bị bệnh về tiêu hóa làm rối loạn quá trình hấp thụ.
Phụ nữ có thai, cho con bú.
Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, cần nhiều glucose và Vitamin B1, để cung cấp cho quá trình chuyển hóa của tế bào thần kinh, một quá trình chuyển hóa tăng rất nhanh đồng thời cũng cần thiết cho chuyển hóa glucid. Hệ thống thần kinh rất nhạy cảm với thiếu Vitamin B1.
Những người có chuyển hóa tăng (stress, chơi thể thao, tăng hoạt giáp) và những người đái tháo đường.
Trường hợp nào nên dùng Vitamin B1?
Vitamin B1 được chỉ định trong các trường hợp sau :
- Thiếu Vitamin B1, đưa vào từ thức ăn ở những người già hoặc người ăn theo chế độ không cân đối.
- Trong tất cả các trường hợp rối loạn hấp thụ, bệnh tiêu hóa hoặc bệnh gan, dùng thuốc hấp phụ hoặc băng niêm mạc dạ dày.
- Trong tất cả những trường hợp nôn mữa, ỉa chảy.
- Khi quá trình bài tiết tăng : đái tháo nhạt hay đái tháo đường, điều trị lợi tiểu kéo dài. Ðặc biệt, trong đái tháo đường, B1 tạo điều kiện dễ dàng cho quá trình đồng hóa glucose.
- Nhu cầu B1 tăng lên lúc có thai.
- Ngộ độc rượu mãn tính.
- Những người uống nhiều cafê hoặc những người ăn cá tươi (một vài enzym cả cá tươi phá hủy B1).
- Những trẻ em bị bệnh di truyền về chuyển hóa B1.
- Những bệnh nhân bị Béribéri.
- B1 còn được chỉ định đi kèm (hoặc không) với B6 và B12 để điều trị dây thần kinh bị viêm trong đau thần kinh tọa, đau lưng, vẹo cổ, đau dây thần kinh, thương tổn thần kinh (chèn ép hay cắt dây thần kinh).
Dùng Vitamin B1 thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không?
Hiện nay, không có nguy cơ quá liều vitamin, vã lại độc tính của Vitamin B1 rất yếu. Do đó người ta chỉ nhận rằng, liều cao chỉ có thể gây lợi tiểu.
---------------------------------

Vitamin B2 là gì ? Riboflavin
- Vitamin B2 đầu tiên bị nhầm lẫn với vitamin B1. Nó được phân biệt bởi khả năng đề kháng với nhiệt và tính không ổn định ở tia cực tím, với tia này vitamin B2 sẽ bị phá hủy trong vài phút.
- Mặc dù được xếp vào nhóm vitamin tan trong nước nhưng tính tan trong nước của vitamin B2 rất yếu, nó ổn định trong môi trường acid, rất không ổn định trong môi trường kiềm.
- Nếu phần lớn thực phẩm, người ta thấy vitamin B2 được kết hợp với protein thì 90% vitamin B2 được tìm thấy ở dạng tự do trong sữa (điều này nói lên giá trị của phương tiện cất giữ sữa, trong chai mờ hoặc carton, để tránh quá trình giáng hóa bởi ánh sáng.
- Tính bền vững với nhiệt cho phép vitamin B2 chịu được quá trình nấu nướng, khử khuẩn và tiệt trùng. Nó cũng bền vững với đông lạnh, làm khô.
Vai trò của vitamin B2 ?
Dị hóa acid béo và một vài acid amin.
Những phản ứng khử ôxy dẫn đến tổng hợp ATP cho phép con người cất giữ năng lượng.
Ngoài ra, vitamin B2 với magesi rất cần thiết quá trình hoạt hóa vitamin B6 và B3. Điều này có nghĩa là thiếu magesi hoặc B2 có thể đưa đến thiếu B6 và B3 thứ phát.
Cuối cùng, vitamin B2 còn cần thiết để khử glutathion, chất khử độc quan trọng của cơ thể.
Thức ăn nào cung cấp vitamin B2 ?
Nguồn cung cấp tự nhiên vitamin B2
Gan
Trứng
Nấm
Yaourt
Thịt
Bánh mì toàn phần
Rau xanh đã nấu
Nhu cầu hàng ngày về vitamin B2 là bao nhiêu ?
Nhìn chung, nhu cầu vitamin B2 được tính theo nhu cầu năng lượng. Khoảng 0,6 mg cho 1000 calo.
Lượng vitamin B2 được khuyên cung cấp

Trẻ còn bú: 0,6mg/ngà
Trẻ từ 1-3 tuổi : 0,8mg/ngày
Trẻ từ 4-9 tuổi: 1 mg/ngày
Trẻ từ 10-12 tuổi: 1,4mg/ngày
Thanh niên 13 đến 19 tuổi Nam:1,8mg/ngày
Thanh niên 13 đến 19 tuổi Nữ :1,5mg/ngày
Người trưởng thành Nam:1,8mg/ngày
Người trưởng thành Nữ :1,5 mg/ngày
Phụ nữ có thai hay cho con bú: 1,8mg/ngày

Thiếu vitamin B2 biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Những dấu hiệu do thiếu vitamin B2 ở người tương đối lành tính :
- Thương tổn da (viêm da, nứt kẻ ở mặt, nhất là nơi cánh mũi, trên tai, hay đuôi lông mày) vừa niêm mạc (môi đỏ bất thường, trơn sáng và khô, đôi khi bị rỉ nước) nứt mép, viêm miệng và viêm lưỡi.
- Những triệu chứng ở mắt (sợ ánh sáng hoặc chảy nước mắt, đục giác mạc, mặt bị xung huyết). Ngoài bệnh di truyền, thiếu vitamin B2 chỉ biểu hiện khi cùng lúc thiếu nhiều nhóm B do kém hấp thụ hay chế độ ăn không cần bằng.
- Những dạng ảnh hưởng gan (hôn mê, hạ đường máu, đột tử, co giật, rối loạn tri giác…) xuất hiện rất sớm trong hai năm đầu của cuộc sống.
- Bắt đầu có biểu hiện ảnh hưởng chậm lên cơ nhất là ở tuổi thanh niên hoặc trưởng thành, và có khả năng gây ảnh hưởng lên cơ từ từ dẫn đến không cử động được. Ngoài ra, một vài thể ảnh hưởng làm cơ tim, một số khác không chịu được gắng sức tạo co rút đi kèm hoặc những biểu hiện đường máu.
- Đối với những phụ nữ chuyển hóa vitamin B2 bất thường phải dùng liều cao vitamin này nếu họ có thai, bởi vì thiếu B2 có thể gây ra những rối loạn trầm trọng ở trẻ em (giảm tương lực, đột tử, biến dạng xương).
Những ai dễ bị thiếu vitamin B2 ?
- Phụ nữ uống thuốc ngừa thai
- Phụ nữ có thai hay cho con bú
- Người già
- Người bị đái tháo đường
- Người uống nhiều rượu
- Suy dinh dưỡng hay những người có chế độ ăn không cân đối.
- Suy thận (lọc máu)
Trường hợp nào nên dùng vitamin B2 ?
- Trong điều trị những bất thường về di truyền của chuyển hóa (rối loạn bệnh cơ không giải thích, hội chứng gan, tiết bất thường acid tổ chức, hạ đường máu).
- Trong dự phòng và điều trị thiếu B2 do thiếu cung cấp hay hấp thu, thường đi kèm với thiếu các vitamin khác nhóm B. Nó cũng được chỉ định kèm với vitamin nhóm B, đặc biệt là B1 và B6, trong những trường hợp sau đây :
Người già
Người nghiện rượu mạnh
Đái tháo đường
Kém hấp thu
Thương tổn da và niêm mạc. Viêm da nứt kẽ, viêm lưỡi…
B2 được sử dụng ở khoa da liễu, là phương pháp điều trị điều chỉnh những chứng bệnh này.
Dùng vitamin B2 thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không?
- Vitamin B2 không độc nên không có dấu hiệu ngộ độc B2.
--------------------------------

VITAMIN B3 HAY VITAMIN PP HAY NIACIN

Vitamin PP là gì ?
Nicotinamid được xem như một vitamin mà con người có thể tổng hợp từ tryptophan.
Đó là vitamin ổn định nhất, tan trong nước và alcool. Nó bền vững với ôxy hóa, môi trường kiềm cũng như nhiệt độ và ánh sáng. Nó có trong tất cả các tổ chức, rất nhiều ở gan.
Vai trò của vitamin PP ?
Vitamin PP là tiền chất của hai coenzym chủ yếu trong nhiều phản ứng sinh hóa cho phép tổng hợp năng lượng và gen.
Thức ăn nào cung cấp vitamin PP ?
Nguồn cung cấp tự nhiên vitamin B3
Gan

Cá ngừ
Cá hồi
Thịt và cá khác
Nấm
Bánh mì toàn phần
Rau xanh đã nấu
Khoai tây
Nhu cầu hàng ngày về vitamin PP là bao nhiêu ?
Ở người, niacin lấy từ thức ăn. Cơ thể có thể tổng hợp nó từ tryptophan với điều kiện có sẵn acid amin này (ở trong protein) cùng B2 và B6, nhờ vi khuẩn ký sinh đường ruột bình thường.
Khó biết được phần niacin nào là của cơ thể tổng hợp và phần nào của thức ăn đưa vào.
Những bệnh di truyền chuyển hóa của typtophan, tạo ra một phần hoặc toàn bộ triệu chứng Pellagre. Do đó, phần niacin được tổng hợp bởi cơ thể là đáng kể.
Lượng vitamin B3 được khuyên cung cấp

Trẻ còn bú : 6mg/ngày
Trẻ từ 1-3 tuổi: 9mg/ngày
Trẻ từ 4-9 tuổi : 12 mg/ngày
Trẻ từ 10-12 tuổi: 14mg/ngày
Thanh niên 13 đến 19 tuổi Nam: 18mg/ngày
Thanh niên 13 đến 19 tuổi Nữ: 15mg/ngày
Người trưởng thành Nam: 18mg/ngày
Người trưởng thành Nữ: 15mg/ngày
Phụ nữ có thai hay cho con bú: 20 mg/ngày

Thiếu vitamin PP biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Những triệu chứng cổ điển của Pellagre, có 3 loại :
Viêm da : nhất là những phần tiếp xúc với không khí và ánh sáng bị đỏ sẫm, đối xứng khiến cho da bị thâm, nhiễm phù, bóc vảy, khô và thô ráp.
Rối loạn tiêu hóa : viêm niêm mạc miệng, viêm niêm mạc đường tiêu hóa cùng với viêm dạ dày và tiêu chảy hoặc chảy máu trực tràng.
Rối loạn tâm thần : mê sảng, ảo giác, lú lẫn, trầm cảm.
Ở mức độ nhẹ hơn : lo lắng, trầm uất, rối loạn giấc ngủ và cảm giác.
Những ai dễ bị thiếu vitamin PP ?
Ngoài những người bệnh di truyền và những người dùng thuốc kéo dài gây thiếu PP, còn có những người có thể mắc là :
- Phụ nữ có thai, cho con bú.
- Suy dinh dưỡng hay thức ăn không cân bằng.
- Tuổi.
- Ngộ độc rượu mãn tính.
Trường hợp nào nên dùng vitamin PP?
Nicotinamid :
Là dạng được dùng cho tất cả những người có nhu cầu bổ sung dinh dưỡng nhất là ở người già, suy dinh dưỡng, nghiện rượu, điều trị thuốc kéo dài.
Ngoài ra người ta còn chỉ định nó cho các trường hợp sau :
Bệnh Hartnup (kết hợp với B6).
Dị ứng với mặt trời (dùng kết hợp với bêta caroten và vitamin E).
Thiếu trytophan (đặc biệt do táo bón kéo dài và chế độ ăn chay).
Rối loạn chức năng dẫn truyền thần kinh, serotonin, kết hợp với lithium liều thấp.
Những chức năng xấu của serotonin rất thường gặp, chẳng hạn nó kết hợp với thích ăn ngọt, lo lắng, dễ kích thích, kích động hay trầm cảm. Ngược lại, serotonin là một chất dẫn truyền thần kinh được tổng hợp trong não từ trytophan. Khi thiếu nhiều nicotinamid, trytophan được dự trữ lại để tổng hợp nicotinamid và trytophan cũng tạo điều kiện thuân lợi cho tổng hợp serotionin.
Acid nicotinic
Vitamine này được sử dụng rất tinh tế, vì có khả năng gây ra những tác dụng phụ, độc hại đối với con người. Acid nicotinic được chỉ định để hạ thấp tỉ lệ cholesterol trong máu, nhưng phải sử dụng với liều cao. Trong những nghiên cứu được so sánh với các thuốc khác, nicotinic đã cho thấy hiệu quả cao hơn. Đặc biệt dùng nicotinic sẽ giảm triglycerid, mỡ trong máu, và giảm LP(a), một lipoprotein có nguy cơ gây bệnh tim mạch cũng như lệ thuộc vào cholesterol. Ngoài ra, nó còn có những đặc tính chống thiếu máu cục bộ nhờ vào tác dụng dãn mạch.
Dùng vitamin PP thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không?
Lưu ý rằng vitamin PP tương ứng với hai thành phần khác nhau :
Nicotinamid và acid nicotinic.
Nicotinamid không độc, do đó không có nguy cơ ngộ độc do quá liều. Nhưng acid nicotinic thường gây ra những tác dụng phụ như dãn mạch (đỏ cổ, mặt, tay, ngứa) và có liều dùng thay đổi theo từng người nên người ta có thể ngăn ngừa những tác dụng phụ này bằng cách dùng trước kháng sinh hitamin.
Acid nicotinic cần được sử dụng cẩn thận ở những người bị dị ứng. Nó bị chống chỉ định trong loét dạ dày hay tá tràng, cũng như trong đái tháo đường và viêm gan. Một nghiên cứu được thực hiện ở 8000 người nhận liều cao (trên 2g/ngày), kéo dài, cho thấy; một vài trường hợp bị viêm gan, do đó nicotinamid được ưa thích hơn để bổ sung thêm vào thức ăn.
Nhưng nicotinic còn có những đặc điểm mà nicotinamid không có chẳng hạn : dãn mạch, làm giảm cholesterol và triglycerid.
--------------------------------------------

Vitamin B5 là gì ? hay Pantothenic acid

Acid patonthenic là một phức hợp có mặt rộng rãi trong cơ thể sống, và đó là một vitamin cần thiết cho sự sống. Nếu thiếu nó, toàn bộ cơ thể sẽ dẫn đến cái chết.
Có hai dạng :

Hoàn toàn tan trong nước, acid pantothenic rất nhạy cảm với nhiệt ở dung môi.
Bị biến dạng trong môi trường axit hoặc kiềm.
Vai trò của vitamin B5 ?
Acid pantothenic được tìm thấy trong cơ thể chủ yếu dưới dạng coenzym A, tiền chất của coenzym A. Quá trình tổng hợp coenzym A được thực hiện đối với các tế bào của cơ thể.
Nồng độ của acid pantothenic và coenzym thay đổi tùy theo tổ chức và tình trạng dinh dưỡng.
Tầm quan trọng của vitamin B5 đã được xác định : nó là một trong ba yếu tố thiết lập nên coenzym A, cần thiết cho tất cả hoạt động chuyển hóa năng lượng của tế bào.
Nó can dự vào chuyển hóa lipid, glucid và protid trong quá trình tổng hợp hormon steroid có dẫn xuất từ cholesterol.
Vitamin B5 tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển và độ bền của da cũng như niêm mạc. Ngoài ra nó cũng đóng vai trò trong quá trình phát triển chức năng của hệ thần kinh trung ương.
Thức ăn nào cung cấp vitamin B5 ?
Nhu cầu được thỏa mãn do thức ăn, acid pantothenic có nhiều trong tự nhiên, người ta chỉ thiếu khi bị suy dinh dưỡng nặng và đi kèm với thiếu các vitamin khác.
Nhu cầu hàng ngày về vitamin B5 là bao nhiêu ?
Người ta tìm thấy B5 trong phần lớn các thức ăn có nguồn gốc từ động vật hay thực vật. Đặc biệt, có nhiều trong gan, lòng đỏ trứng, thịt, nấm, ngũ cốc toàn phần và rau xanh.

Lượng vitamin B5 được khuyên cung cấp
Loại --------------------------------------mg/ngày
Trẻ còn bú-------------------------------3
Trẻ từ 1-3 tuổi---------------------------3
Trẻ từ 4-9 tuổi---------------------------4 đến 7
Từ 10 tuổi đến tuổi trưởng thành-------7 đến 10

Thiếu vitamin B5 biểu hiện triệu chứng như thế nào?

Thiếu B5 hoàn toàn là một ngoại lệ và luôn đi kèm với tình trạng suy dinh dưỡng và khi đó cũng thiếu nhiều vitamin. Những dấu hiệu khi thiếu B5 không bao giờ đơn thuần và biểu hiện lâm sàng không rõ nét.

Chỉ qua những thực nghiệm được thực hiện với người và động vật có chế độ ăn hoàn toàn không có B5, sau đó cung cấp thêm một chất đối kháng đặc hiệu với vitamin này.
Đã cho phép xác định chính xác hiệu quả của thiếu B5 là rụng lông, mất màu da, loét da, viêm hay loét hành tá tràng, hoại tử tuyến thượng thận cũng như thiếu khả năng tổng hợp cholesterol và corticoid, có thể cetonic, acetylcholin, và gây rối loạn chuyển hóa acid béo hoặc tổng hợp kháng thể bất thường. Hầu như : những rối loạn này thay đổi một cách đáng kể từ loài này sang loài khác.

Ở người, những thực nghiệm được thực hiện trên những người tình nguyện đã cho phép thêm vào những dấu hiệu đi trước của rối loạn thần kinh chủ quan (dị cảm) cảm giác nóng rát ở các đầu chi và rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên, người ta vẫn không xác định được bệnh di truyền nào do chuyển hóa vitamin B5 hoặc tổng hợp coenzym A gây ra.

Những ai dễ bị thiếu vitamin B5 ?
Suy dinh dưỡng nặng
Những người được nuôi dưỡng kéo dài qua đường ngoài tiêu hóa
Phụ nữ cho con bú (sữa mẹ rất giàu B5)

Trường hợp nào nên dùng vitamin B5?
Giúp liền sẹo các vết thương và bỏng
Táo bón kéo dài, mất trương lực một sau phẫu thuật liều cao B5 làm tăng nhu động ruột.
Nhiễm vùng tai, mũi, họng

Vì lý do dị cảm của chi dưới trong những thực nghiệm thiếu B5 ở người nên B5 cũng được đề nghị dùng điều trị sự co cơ. Đặc biệt ở phụ nữ có thai, B5 còn được dùng để điều trị các chứng loạn dưỡng (rối loạn dinh dưỡng) trên các đầu chi. Nhưng ngoài các tác dụng cổ điển về khả năng làm lành sẹo, các tác dụng khác về B5 vẫn còn được bàn cãi.
Dùng vitamin B5 thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không?
Không có biểu hiện quá liều B5 dù cấp tính hay mãn tính
-----------------------------------------------------
Vitamin B5 (Acid pantothenic)

Tên của acid pantothenic bắt nguồn từ chữ “panthos” có nghĩa là “mọi nơi”. Acid pantothenic là một vitamin tan trong nước và là thành viên của các vitamin nhóm B.

Vitamin này thường có trong các chế phẩm bổ sung dưới dạng calci pantothenate.

Độ ổn định
Acid pantothenic bị phân hủy bởi nhiệt, acid (như dấm) hay kiềm (nước xô-đa: bicarbonate). Vitamin cũng bị mất trong quá trình nấu nướng.

Chức năng
Acid pantothenic là một phần của phân tử coenzyme A đóng một vai trò quan trọng trong quá trình giải phóng năng lượng từ thực phẩm (chất béo, chất bột, protein và rượu). Acid pantothenic cũng có vai trò rất quan trọng trong chức năng của tuyến thượng thận và trong sự tạo thành các kháng thể.

Nhu cầu
Giới hạn trên an toàn cho việc bổ sung acid pantothenic hàng ngày là 500mg.

Liều khuyến nghị hàng ngày là 18mg.


Sự thiếu hụt
Những người tình nguyện tự loại bỏ acid pantothenic đã mô tả sự xuất hiện các triệu chứng mỏi mệt, nhức đầu, chóng mặt, yếu cơ và rối loạn ở dạ dày tá tràng.

Dùng bổ sung
Stress
Do vai trò đã biết của acid pantothenic trên sức khỏe của tuyến thượng thận và trong việc sản xuất hormone corticosteroid, có thể dùng acid pantothenic như một dưỡng chất giúp cơ thể đương đầu với stress.

Dị ứng
Acid patothenic có thể giúp giảm phản ứng dị ứng trên hệ hô hấp và tiêu hóa.

Viêm khớp
Acid pantothenic rất thường được sử dụng cho người bị viêm khớp mạn tính. Các bệnh nhân trong nhóm này thường có lượng acid pantothenic trong máu thấp. Nhiều nghiên cứu chứng tỏ vai trò hữu ích của acid pantothenic trong bệnh viêm khớp đã được thực hiện và kết quả thu được rất đáng khích lệ.

Độ an toàn
Thanh niên nam dùng 10g calci pantothenic mỗi ngày trong vòng 6 tuần vẫn không có dấu hiệu độc tính nào xảy ra,nhưng có thể có một số rốiloạn nhẹ như tiêu chảy hoặc rối loạn dạ dày tá tràng.

Tương tác và chống chỉ định
Không có chống chỉ định cho acid pantothenic.

http://www.suckhoecongdong.com/thuong-thuc...othenic%29.html
-----------------------------

VITAMIN B6 HAY PYRIDOXIN

Vitamin B6 là gì ?
Phần lớn B6 có trong gan vì những tế bào gan tổng hợp coenzym hoạt động được xuất phát từ pyridoxin và các dẫn xuất của chúng, trước khi mang đến hệ tuần hoàn. Người ta còn tìm thấy vitamin B6 trong não, huyết tương và hồng cầu.
Vitamin B6 tan trong nước, ổn định với nhiệt độ và bền vững trong môi trường ôxy hóa, nhưng bị giáng hóa bởi nhiệt độ ở dung môi trung tính hay kiềm. Ngoài ra, quá trình tiến hành đông lạnh nhanh thực phẩm thì không làm biến đổi B6.
Vai trò của vitamin B6 ?
Vitamin B6, giống như coenzym, tham gia hơn 100 phản ứng chủ yếu của quá trình chuyển hóa acid amin.
Trong số những phản ứng khác từ cuộc sống, nó được sử dụng trong :
Tổng hợp một thành phần khử độc của muối mật, chất này đóng vai trò làm dịu não.
Tổng hợp chất trung gian thần kinh quan trọng, giống như serotonin và GABA, những chất này cần thiết cho tiến trình kiểm soát lo lắng.
Tính miễn dịch
Tổng hợp hemoglobin
Cầu nối( tạo keo) cần thiết để làm chắc xương
Vai trò của nó cũng quan trọng và phức tạp. Nếu thiếu B6 sẽ gây ra những ảnh hưởng trầm trọng trong nhiều lãnh vực : tâm thần, giảm miễn dịch, tăng nguy cơ bị loãng xương và bệnh tim mạch.
Thức ăn nào cung cấp vitamin B6 ?
Người ta tìm thấy B6 trong nhiều thực phẩm, đặc biệt, trong nhóm thực phẩm giàu những vitamin nhóm B khác như : gan, cá, thịt, rau xanh, cải bông, đậu haricots, chuối.
Nguồn cung cấp tự nhiên vitamin B6
Trứng
Thịt
Sữa mẹ

Rau
Trái cây
Vi khuẩn kí sinh tổng hợp một dạng vitamin B6 không được hấp thu.
Nhu cầu hàng ngày về vitamin B6 là bao nhiêu ?
Lượng vitamin B6 được khuyên cung cấp

Trẻ còn bú : 0,6mg/ngày
Trẻ từ 1-3 tuổi:0,8 mg/ngày
Trẻ từ 4-9 tuổi: 1,4 mg/ngày
Trẻ từ 10-12 tuổi: 1,6mg/ngày
Thanh niên 13 đến 19 tuổi Nam: 2,2mg/ngày
Thanh niên 13 đến 19 tuổi Nữ: 2,0 mg/ngày
Người trưởng thành Nam: 2,2 mg/ngày
Người trưởng thành Nữ: 2,0 mg/ngày
Phụ nữ có thai hay cho con bú: 2,5 mg/ngày

Thiếu vitamin B6 biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Kết hợp những tác nhân dinh dưỡng, hormon, dược lý và gen đưa tới tình trạng thiếu B6 gây ra những dấu hiệu không đặc hiệu, hiếm khi được biết.
Ngộ độc rượu mãn tính ở những người tâm thần bị đưa vào viện trong tình trạng dinh dưỡng kém.
Điều trị bằng isoniazide cho người nghiện rượu mãn với chuyển hóa bị chậm lại.
Chạy thận nhân tạo cho những người suy thận có chế độ ăn giảm năng lượng và giảm protein.
Có thai sau khi vừa ngưng thuốc ngừa thai.
Một vài cơ địa di truyền, giống bệnh homolystein niệu dị hợp tử do biến đổi gen.
Không có dự trữ về B6, dẫn đến xuất hiện nhanh các triệu chứng :
Dễ tổn thương với stress, lo lắng, rối loạn tính tình và có xu hướng bị trầm uất.
Viêm quanh cánh mũi và mép môi (viêm da nứt kẽ)
Giảm đề kháng miễn dịch.
Viêm đa dây thần kinh, thiếu máu nếu thiếu B6 trầm trọng.
Bị co giật ở trẻ em.
Những ai dễ bị thiếu vitamin B6 ?
Nghiện rượu mãn tính, thường kèm thiếu các vitamin nhóm B khác, điều này đưa đến viêm đa dây thần kinh và rối loạn tâm thần.
- Lọc máu.
-Những người được điều trị với isoniazid (thuốc kháng lao này kết hợp với dạng hoạt động của vitamin và đưa ra một chất khiến mất hoạt tính vitamin).
- Phụ nữ có thai, lúc mới sinh và lúc cho con bú. Khi thiếu B6 có thể gây ra chứng “trầm cảm sau sinh”.
-Phụ nữ uống thuốc ngừa thai có nhu cầu B6 tăng lên, thiếu B6 sẽ dẫn đến các biểu hiện lo lắng, trầm uất.
- Hội chứng tiền kinh đó estrogen tăng cao dẫn đến sử dụng nhiều B6. Thiếu B6 tạo điều kiện cho kích thích xảy ra, khi đó sẽ thích ăn ngọt, lo lắng, trầm cảm.
- Người bị bệnh homocystein niệu dị hợp tử, sẽ có homocystein tích tụ trong máu, làm tăng nguy cơ bị lấp mạch và xơ vữa động mạch sớm.
- Người già, suy dinh dưỡng.
-Người chơi thể thao.
Cuối cùng, ở 50% những người thiếu B6 đều có những triệu chứng khác nhau (cứng chi, đau đầu, cảm giác nóng rát thái dương và nóng, đau dạ dày, biểu hiện sau ăn monoglutamat natri. Một loại muối được sử dụng tại các tiệm ăn Trung Hoa.
Điều này do quá trình chuyển hóa bất thường của monoglutamat natri khi thiếu B6, không xảy ra nếu được điều trị với B6.
Trường hợp nào nên dùng vitamin B6?
Tăng nhu cầu (thể thao, hội chứng tiền kinh, uống thuốc ngừa thai, có mang, cho con bú, bệnh homocystein niệu dị hợp tử).
Không cung cấp đầy đủ từ thức ăn.
Rối loạn hấp thu, chuyển hóa, sử dụng vitamin : Thiếu máu ở người nghiện rượu mãn tính, lọc máu mãn tính.
Tương tác thuốc gây rối loạn chuyển hóa vitamin (isoniazide).
Bằng những dấu hiệu thiếu vitamin B6 được quan sát từ động vật ăn theo chế độ. Thiếu hoàn toàn B6, được chỉ định dùng điều trị hỗ trợ viêm đa dây thần kinh do mọi nguyên nhân. Chẳng hạn : Viêm dây thần kinh nhãn cầu, dị cảm, co rút, run, múa giật, bệnh Parkinson (nhưng không được phối hợp với L-Dopa vì nó là chất đối kháng). Vitamine B6 cũng được sử dụng, kết hợp với magesi trong hội chứng ống cổ tay (cảm giác tê rần và những rối loạn khác ở bàn tay). Keratin, protein giúp tóc và móng hình thành với 12% cystin. B6 cần thiết cho quá trình tổng hợp cystin và được chỉ định khi rụng tóc hoặc biến đổi móng (thường kết hợp với kẽm).
Về lâu dài, liều trung bình không được quá 100mg/ngày. Vitamine B6 luôn được kết hợp với những vitamine nhóm B khác và magesi. Vai trò của B6 trong chuyển hóa acid amin là cơ bản.
Đặc biệt tăng nhu cầu do estrogen( thuốc ngừa thai, hội chứng tiền kinh, có thai) và nhiều người có yếu tố gen lệ thuộc B6 sẽ đáp ứng lâm sàng cũng như sinh học khi dùng thêm B6. Triệu chứng thường gặp nhất của thiếu B6 là tăng tính tổn thương với stress, lo lắng. Thông thường, ở những trường hợp này hay bỏ sót nhu cầu dinh dưỡng và vitamin, chỉ chú ý điều trị bằng thuốc chống lo âu. Do đó, sử dụng các thuốc này vẫn không chữa được nguyên nhân.
Vì vậy, để hợp lý hơn phải điều chỉnh các rối loạn trên bằng cách kết hợp vitamin B6 – taurine – magesi.
Dùng vitamin B6 thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không?
Với liều thấp, không có nguy cơ độc, nhưng với liều cao (từ 250mg/ngày) dùng kéo dài (nhiều tháng) có thể gây chứng viêm đa dây thần kinh.
Go to the top of the page
 
+Quote Post
KinhThanh
bài Jan 28 2011, 04:57 AM
Bài viết #33


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



VITAMIN H ; B8 HAY BIOTIN

Vitamine B8 là gì ?
Vitamine B8 tan trong nước và dung dịch kiềm, nhưng ít tan trong môi trường axit hoặc những dung môi hữu cơ. Nó ổn định với nhiệt và dung môi nước, ít nhạy cảm với ôxy hóa. Đặc biệt, bị phá hủy bởi tia cực tím.
Vitamine B8 có nhiều đặc tính giống với avidin, glycoprotein của lòng trắng trứng. Với chất này vitamine B8 sẽ tạo thành liên kết khiến nó trơ không có hoạt tính. Tính liên kết này sẽ gây ra thiếu vitamine.
Vai trò của Vitamine B8 ?
Biotin là coenzym của tất cả họ enzyme, carbôxylase. Nó can thiệp gián tiếp vào quá trình tổng hợp lipide cùng một vài acid béo cũng như vài acid amine và đường trong chu trình sản xuất ra năng lượng.
Thức ăn nào cung cấp Vitamine B8 ?
Giống tất cả các vitamine nhóm B khác, nó có trong : gan, nấm haricots, trứng, cá và thịt. Nhưng lòng trắng trứng có chứa một phân tử avidin làm hủy hoại B8.
Nguồn cung cấp tự nhiên của vitamine B8
Men bia
Cải bông,
nấm

Haricots, đậu khô
Trứng toàn phần
Cà rốt,
cà chua
Gạo
Cừu
Heo
Sữa bò
Chocolat
Fromage
Nước cam
Táo
Sữa mẹ
Cá biển

Nhu cầu hàng ngày về Vitamine B8 là bao nhiêu ?
Nhu cầu B8 được thỏa mãn một cách bình thường bởi thức ăn, vì nó phân bố nhiều trong động vật và thực vật. Ngoài ra, vi khuẩn của ống tiêu hóa góp phần tổng hợp chúng, tạo điều kiện thỏa mãn một phần nhu cầu. Khó để ước tính nhu cầu cần thiết B8 hàng ngày.
Nó thay đổi từ 100mg đến 300mg/ngày đối với người lớn
......................50 mg đến 90mg/ngày đối với trẻ em.
Thiếu Vitamine B8 biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Triệu chứng thần kinh : rối loạn tri giác, hôn mê, tinh thần chậm chạp, co giật.
Những dấu hiệu về tiêu hóa : chán ăn, nôn mửa
Những dấu chứng về da : rụng lông, thưa lông mi và lông mày, hoặc viêm da quanh các lỗ tự nhiên, viêm lưỡi, viêm kết mạc, nhiễm nấm candida, viêm móng và quanh móng.
Những ai dễ bị thiếu Vitamine B8 ?
Không có tình trạng thiếu vitamine B8 ở những người bình thường, có chế độ ăn bình thường.
Nhưng có hai tình huống rất đặc biệt gây ra tình trạng thiếu B8.
Chế độ nuôi dưỡng nhân tạo lâu dài không cung cấp vitamine.
Chế độ ăn nhiều, một cách bất thường lòng trắng trứng tươi.
Ngoài ra, có một bệnh bẩm sinh không phải vì thiếu biotin, nhưng lệ thuộc vào vitamine này, do thiếu nhiều carboxylase. Chứng thiếu này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1979. Khi bệnh này được phát hiện, nó có thể chữa dễ dàng.
Trường hợp nào nên dùng Vitamine B8 ?
Chỉ định đầu tiên là thiếu nhiều carboxylase, biotin sẽ chữa khỏi và bảo đảm cho đời sống bình thường của bệnh nhân (B8 phải được uống suốt đời). Dùng B8 để điều trị rụng lông cùng những bất thường về lông và móng hoặc viêm da nhờn ở mặt và da đầu, trứng cá, viêm lợi. Nhưng ở người, thiếu B8 là một ngoại lệ và những chỉ định này không được xác nhận bởi các nghiên cứu.
Bệnh được nuôi dưỡng nhân tạo kéo dài hoặc ăn lòng trắng trứng kéo dài. Nhưng khi trở lại chế độ ăn bình thường sẽ thiết lập được cân bằng.
Những nghiên cứu mới đây thấy rằng, biotin(vitamine B8) có khả năng làm giảm được đường máu. Nó được dùng bởi liệu pháp dinh dưỡng, kết hợp với các vitamine nhóm B khác và magesi để hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường.
Dùng Vitamine B8 thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ?
Hiện nay, chưa tìm thấy dấu hiệu ngộ độc B8 do quá liều.
----------------------------------

VITAMIN B9 HAY ACID FOLIC HAY FOLAT

Vitamine B9 là gì ?
Năm 1940, thuật ngữ acid folic được đặt cho một chất cần thiết trong quá trình tăng trưởng của liên cầu khuẩn, nó được tìm thấy trong lá rau bí na. Thuật ngữ folat là chung và đặt tên cho một họ hợp chất mà acid folic để xem là phức hợp cơ bản.
Vai trò của vitamine B9 ?
Acid folic là cơ sở chính của nhiều coenzyme. Trong nhiều phản ứng tổng hợp, những coenzyme này tham dự vào quá trình trưởng thành và phân chia tế bào. Nó có vai trò quan trọng ở nhiều mức khác nhau :
Tạo ra những tế bào máu, thiếu acid folic dẫn đến thiếu máu hồng cầu to.
Hệ thần kinh trung ương, vì folat tham gia vào quá trình tổng hợp nhiều chất dẫn truyền thần kinh như : Dopamin, adrenalin, noradrenalin.
Rối loạn thái độ, tinh thần chậm chạp xảy ra là do sai lầm của chuyển hóa folat. Nguồn gốc của những rối loạn này vẫn chứa được sáng tỏ, nhưng người ta biết rằng : tính toàn bộ của các phản ứng mà vitamine B9 là cơ sở rất cần thiết cho quá trình phát triển bình thường cũng như cho hoạt động nhịp nhàng của tất cả hệ thần kinh. Nó cần thiết trong nhiều trường hợp :
Tổng hợp acid nucleic (AND, ARN) tạo nên gen.
Trong methyl hóa acid nucleotide, điều này dường như quan trọng trong ngăn ngừa ung thư.
Tổng hợp methionin, acid amin đồng thời lọc homocystein làm giảm huyết khối và xơ vữa động mạch. Tổng hợp protein.
Thức ăn nào cung cấp vitamine B9 ?
Trong thực phẩm có nguồn gốc động vật và thực vật. Vitamine B9 bị phá hủy nhanh bởi ôxy hóa và nhiệt. Vi khuẩn đường ruột tạo nguồn gốc cung cấp phụ thêm nhưng rất ít.
Nguồn gốc tốt nhất là : gan (gan bê, pâté gan vịt…) trứng, nấm. Thiếu B9 sẽ đi kèm với thiếu vitamine C hoặc sắt, kẽm. Khi đó giảm tính sinh học có sẵn của B9. Đặc biệt bệnh bò điên khiến cho người sử dụng gan bò cẩn thận, cũng ảnh hưởng đến B9.
Nguồn cung cấp tự nhiên của vitamine B9
Nấm
Cà rốt
Khoai tây
Sữa mẹ
Sữa bò tươi
Sữa bột
Mầm lúa mì
Đậu haricot
Nấm men
(chiết xuất cô đặc)
Thịt, bò, lợn, bê
Gà, trứng
Gan (bò, heo, bê)

Nhu cầu hàng ngày về vitamine B9 là bao nhiêu ?
Lượng vitamine B9 được khuyên cung cấp

Trẻ còn bú :50mg/ngày
Trẻ từ 1-3 tuổi: 100 mg/ngày
Trẻ từ 4-12 tuổi: 200 mg/ngày
Thanh niên từ 13 đến 19 tuổi: 300mg/ngày
Người trưởng thành: 300 mg/ngày
Phụ nữ có thai hay cho con bú: 500 mg/ngày

Thiếu vitamine B9 biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Thiếu cung cấp : đến đột ngột sau khi dùng thuốc kháng folic như methotrexat, hay kháng sinh điều trị bệnh đường tiết niệu. (Bactrim, Eusaprim). Đặc biệt nguy hiểm ở trẻ em, lúc có thai, khi đó biểu hiện bằng rối loạn tiêu hóa (đi chảy, chán ăn, buồn nôn), bệnh da, chảy máu, hay ban xuất huyết.
Thiếu mãn tính : xuất hiện mệt mỏi tăng dần, rối loạn giấc ngủ và trí nhớ, dễ bị kích thích, đôi khi giảm ngon miệng cùng những dấu chứng giống như thiếu B12. Ở thanh niên thiếu B9 có thể gây ra chậm phát triển.
Triệu chứng lâm sàng của trẻ em bị rối loạn chuyển hóa B9 bao gồm : Những rối loạn thần kinh khác nhau cùng với co giật, rối loạn thái độ tự kỷ và chậm chạp về tinh thần.
Những ai dễ bị thiếu vitamine B9 ?
- Thiếu từ thức ăn được mang vào cơ thể.
- Thiếu hấp thu do mắc phải hay di truyền.
- Tăng nhu cầu (hay bài tiết)
Đặc biệt ở những phụ nữ có thai, nhu cầu B9 tăng đáng kể. Do đó, mức độ cung cấp B9 được đề nghị trong thời gian mang thai, có thai gần nhau, hoặc cho con bú kéo dài rất cần thiết và có hệ thống.
Nhu cầu cũng được tăng một cách đáng kể ở trẻ sơ sinh, trẻ sinh non, nhất là trẻ được nuôi dưỡng bằng sữa bò hay sữa mẹ thiếu B9.
Nói khác hơn, khả năng cung cấp B9 từ thức ăn hằng ngày là không đủ. Nhiều tình huống tăng những nguy cơ thiếu B9 : có thai, sinh non, trẻ nhỏ, phát triển nhanh, tuổi già, có kinh nhiều, uống nhiều rượu, sử dụng kéo dài một vài loại thuốc, một số bệnh tiêu hóa, sida…
Trường hợp nào nên dùng vitamine B9?
Chỉ định cho những người tuổi già :
Điều chỉnh thiếu folate không chỉ quan trọng để tối ưu khả năng trí tuệ, mà còn rất cần thiết để duy trì khả năng này, đặc biệt, ở những người già.
Do đó, cần cho người già biết được tầm quan trọng khi dùng gan và các thức ăn giàu folat. Nó có thể bổ trợ thêm folat, vitamine B12 và là những thức ăn cần thiết để duy trì chức năng trí tuệ .
Chỉ định B9 ở người trẻ tuổi :
Với người trẻ, thiếu dinh dưỡng cũng thường gặp, nhưng không cùng hậu quả như trên.
Chỉ định ở phụ nữ có thai :
Những nghiên cứu của Smithells và Schorah, và được xác định bởi nhiều nghiên cứu, đã chỉ ra rằng : Thiếu folat ở người mẹ sẽ tạo thuận lợi biến dạng cho trẻ sơ sinh như không đóng kín ống sống.
Thuốc ngừa thai, làm tăng thiếu folat. Vì vậy FDA của Hoa Kỳ, đề nghị bổ sung vào bánh mì và bột ngũ cốc B9, để cung cấp cho các phụ nữ trong tuổi có thai.
Ở Pháp người ta cũng đề nghị những phụ nữ muốn có thai phải dùng thêm folat ba tháng trước khi thụ thai.
Bệnh tim - mạch :
Folat cũng giữ vai trò ngăn ngừa bệnh tim mạch, thiếu chúng, giống như thiếu vitamine B6 và B12 sẽ đưa đến gia tăng homocystein. Một nghiên cứu được thực hiện năm 1995 ở Irlande cho thấy rằng những người dùng thêm vitamine B9 giảm 64% nguy cơ chết do nhồi máu cơ tim.
Dùng vitamine B9 thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không?
Ngày nay chưa thấy trường hợp nào bị ngộ độc do quá liều. Bệnh ung thư máu bị chống chỉ định dùng B9.
Thiếu B9 kết hợp với B12 thường xảy ra. Khi đó, người ta khuyên nên bổ sung vitamine B12 trước.
----------------------------------------
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ax%C3%ADt_folic

Vitamin B9 (Acid folic) không chỉ là có lợi


Vitamine B9 rất quý trong vài trường hợp, nhưng quá nhiều vitamine này có thể làm gia tăng nguy cơ bị ung thư.
Vitamin B9 (Acid folic) không chỉ là có lợiVitamine B9 hay acide folique có tên phát xuất từ những nguồn đầu tiên được nhận diện : các lá (folium) thực vật xanh. Epinard, chou vert, rau diếp (laitue)… giàu acide folique, cũng như cam quýt (agrumes) và các ngũ cốc hoàn toàn (céréales complètes). Mặc dầu chúng có những chức năng khác nhau, nhưng có một chức năng nổi trội hơn hết : khả năng của acide folique làm giảm nguy cơ bị vài dị dạng bẩm sinh.
Miễn là vitamine B9 được tiêu thụ với lượng đầy đủ và, nhất là đúng lúc, nghĩa là vào ngay lúc thụ thai.Thật vậy, chính vào 3 tuần lễ đầu sau khi thụ thai (nghĩa là trước khi biết là có thai), vitamine B9 mới có tác dụng bảo vệ. Nói vắn tắt, để việc cấp bổ sung vitamine B9 hữu ích, không nên chờ đợi xem để biết có thai hay không, như thế đã là quá muộn…
Để lấy đi chướng ngại vật này, các người Mỹ đã không bủn xỉn : họ đã quyết định, cách nay hơn 10 năm, làm phong phú với B9 các chất bột (farine) và những sản phẩm ngũ cốc khác, để cho mọi phụ nữ ở lứa tuổi có con hưởng được một bảo đảm tốt hơn acide folique. Và từ hơn 10 năm nay, các phân tích cho thấy rằng chiến lược tỏ ra có hiệu quả để làm giảm nguy cơ bị các dị tật bẩm sinh. Hơn thế nữa, nhiều công trình nghiên cứu gợi ý rằng acide folique cũng có thể đóng một vai trò có lợi trong sự ngăn ngừa nhiều vấn đề, như các bệnh tim mạch, thậm chí trong sự lão hóa não bộ.

Tiếc thay chỉ đến nay, không có gì như thế đã được kiểm tra. Về việc sử dụng các bổ sung B9, mặc dầu việc sử dụng này được biện minh trong trường hợp thai nghén, nhưng việc này không nhất thiết có lợi cho tất cả. Dầu sao đó là điều được rút ra từ các công trình nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở hai nghiên cứu bao gồm 6.800 người bị bệnh tim.
Một bộ phận của những người tham dự sử dụng đều đặn các bổ sung acide folique, có hay không có B12 và B6, được cho là tăng cường vài tác dụng có lợi của vitamine B9. Sau 39 tháng điều trị (hay kiểm chứng đối những người không được điều trị bằng vitamines) và rồi còn một thời kỳ theo dõi 38 tháng, đó là lúc tổng kết. Ít đáng phấn khởi, vì lẽ công trình nghiên cứu, được công bố mới đây trong tạp chí rất đứng đắn Journal of the American Association, sự sử dụng vitamine B9, nhất là lúc được phối hợp với vitamine B12, được liên kết với một sự gia tăng đáng kể số các trường hợp ung thư và cac nguy cơ bị ung thư (+21% đối với B9+B12), cũng như sự gia tăng tỷ lệ tử vong do ung thư (+38% đối với B9 phối hợp với B12). Công trình nghiên cứu này mặc dầu không cho phép rút ra những kết luận lâu dài, nhưng nếu những kết quả này được xác nhận bởi những công trình nghiên cứu khác được tiến hành với quy mô lớn hơn và trong những nhóm người khác, điều này có thể khiến phải xem lại việc cho bổ sung. (LE SOIR 1/12/2009)

Nguồn: yduocngaynay.com
http://ykhoanet.vn/home/863/vitamin-b9-aci...i-la-co-loi.htm
---------------------------------------------
Những nghiên cứu, khám phá thế giới Folate

TS. BS. Hùynh Thị Thu Thủy
Phó Giám Đốc - BV Từ Dũ
Ảnh chỉ mang tính chất minh họa

1. Folate là gì? Folate và Acid folid có khác nhau?

Folate và acid folid đều là loại Acid amin, là một chất đồng diếu tố rất quan trọng trong cơ thể.

Nói Folate nghĩa là muốn đề cập đến Folate ở dạng tự nhiên, có trong thiên nhiên như trong rau quả, thực vật…còn Acid folid thì ở dạng tổng hợp, tức phải nhờ các phương tiện kỹ thuật để bào chế, tổng hợp nên Folate dễ bị phân hủy khi chế biến, nấu nướng.
2. Folate có vai trò gì trong sức khỏe con người?

- Là một lọai Acid amin cần thiết để hình thành, tạo nên một tế bào mới cho một cơ thể con người và động vật khác.

- Là chất bắt buộc phải có để làm cho một tế bào có thể phát triển được, nhất là tế bào máu cho nên có thể nói là một chất tạo máu.

- Ngoài ra Folate còn giúp cho sự phân chia tế bào, tham gia trực tiếp vào quá trình tổng hợp các Nucleotid của AND trong cơ thể.

3. Đã có những nghiên cứu khoa học nào trên thế giới về ảnh hưởng của việc thiếu hụt Folate trên sức khỏe con người?

- Khoa học từ lâu đã xác nhận: thiếu Acid folid con người sẽ bị những rối loạn sau: thiếu máu, giảm sức đề kháng, trầm cảm do rối loạn tâm thần. Thai phụ thiếu Acid folid có thể bị bệnh thai trứng, thai suy dinh dưỡng.
- Các nghiên cứu trong những thập niên gần đây tập trung vào việc ảnh hưởng của việc thiếu Folate lên sức khỏe sinh sản:
+ Thiếu Folate sẽ làm cho phụ nữ khó thụ thai, bị thiếu máu do thiếu hồng cầu có chất lượng, bệnh Sikle cell (WHO) 2000.
+ Thiếu hụt Acid folic sẽ làm cho nồng độ homocystein trong máu cao liên quan đến các biến chứng như nhau bong non, thai chết lưu, tiền sản giật và sản giật (Rolschau et cs 1999)
+ Một nghiên cứu của Scholl và cộng sự ở Mỹ năm 1996: các em bé con của các bà mẹ thiếu Acid folic dễ bị sanh non và khi sanh ra sẽ bị nhẹ cân.
- Từ năm 1988, nhiều nghiên cứu dịch tễ học đã nghiên cứu vai trò của Folate trong việc phòng tránh khiếm khuyết ống thần kinh…Các thử nghiệm cho thấy:
+ Phụ nữ có bổ sung vitamin có chứa Acid folic trước và trong 6 tuần đầu của thai kỳ làm giảm đáng kể nguy cơ khiếm khuyết ống thần kinh:

* Theo Werler và Michell 1993: tỷ lệ giảm 60%
* Theo Milunsky và cộng sự 1989, Stanley 1989: 75%
* Một nghiên cứu ở Trung Quốc năm 1999 trên một số lượng lớn: trên 12000 phụ nữ mang thai. Kết quả cho thấy: tỷ lệ khiếm khuyết ống thần kinh ở trẻ sơ sinh trong nhóm không uống là 5.8 phần ngàn và nhóm có uống thuốc là 1.6 phần ngàn.

+ Việc bổ sung Folate làm giảm nguy cơ tái diễn khiếm khuyết ống thần kinh:

* Nguy cơ tái diễn khiếm khuyết ống thần kinh ở lần mang thai thứ hai của các bà mẹ tiền căn sanh con khuyết ống thần kinh tăng 10 lần.
* Tỷ lệ giảm 80% ở những bà mẹ này khi có bổ sung Acid folic: Smithells và cs.
* Nghiên cứu mù đôi ở Anh bổ sung 4mg Acid folic mỗi ngày làm giảm hơn 70% tỷ lệ tái diễn khiếm khuyết ống thần kinh cho trẻ sơ sinh.
* Ceizel 1993 (Ý): cho các thai phụ uống 800 microgram Acid folic mỗi ngày làm giảm tần số xuất hiện các khiếm khuyết ống thần kinh cũng như các khiếm khuyết sơ sinh khác so với nhóm Placebo.

4. Đã có những ứng dụng gì trên thế giới để khắc phục các hậu quả thiếu Folate lên sức khỏe sinh sản:

- Theo WHO có hướng dẫn về sự tập trung vào sự cần thiết phải có “an ninh lương thực” trong đó quy tắc khung liên quan đến sức khỏe phụ nữ là: đáp ứng nhu cầu Folate, đặc biệt đối với phụ nữ tuổi trưởng thành và phụ nữ mang thai.

- Ở Mỹ: phụ nữ chuẩn bị mang thai: sử dụng 400 microgram Acid folic và 400mg Folate mỗi ngày để dự phòng dị tật khiếm khuyết ống thần kinh cho trẻ sơ sinh. Và 4000 microgram mỗi ngày cho các phụ nữ có tiền căn sanh con bị khiếm khuyết ống thần kinh để dự phòng tái phát. Ngoài ra người ta bổ sung Acid folic vào sữa, các thực phẩm có nguồn gốc từ ngữ cốc sử dụng rộng rãi trong cộng đồng.

- Nhiều cơ quan y tế thế giới khuyến nghị phụ nữ ở độ tuổi sinh sản (đặc biệt phụ nữ có thai) nên sử dụng từ 800 – 4000 microgram Acid folic mỗi ngày.

- Những thử nghiệm gần đây ở Đan Mạch cho thấy việc bổ sung 1000 microgram Acid folic mỗi ngày trước và trong suốt 3 tháng đầu thai kỳ có tác dụng làm trẻ sinh ra nặng cân hơn, làm giảm tỷ lệ sinh non và tỷ lệ trẻ nhẹ cân (Rolschau et cs 1999)
-------------------------------
Choline: Một Dưỡng Chất Thiết Yếu
Ngày đăng: 05/06/2009
Choline đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa bệnh tim. Choline cần thiết cho sự phát triển bình thường của mô não trong quá trình phát triển của bào thai...

1. Nguồn gốc:
- Choline được tìm thấy dưới dạng phosphatidylcholine (hay lecithin) có trong màng tế bào và trong sphingomyelin, là thành phần quan trọng của lớp myelin bao quanh sợi thần kinh.
- Acetylcholine, chất dẫn truyền thần kinh quan trọng, cũng là một chất có liên quan đến choline.
- Choline cũng được tìm thấy trong gan, đóng vai trò trong việc tạo methionine và lipoprotein.

2. Chức năng:
- Choline có vai trò trong việc tạo cấu trúc và chức năng của màng tế bào. Là một phần của sphingomyelin tạo nên lớp vỏ bao myelin, choline góp phần bảo vệ sợi thần kinh và tăng cường chức năng dẫn truyền thần kinh.
- Choline là tiền chất của betaine, chất thẩm thấu được thận sử dụng để kiểm soát cân bằng nước và điện giải.
- Ở gan, choline là nguồn cung cấp gốc methyl để tạo lipoprotein, là chất dẫn truyền thần kinh quan trọng có liên quan đến trung tâm lưu trữ thông tin và kiểm soát cơ.
- Choline là thành phần hoạt động của surfactant ở phế nang. Thiếu surfactant ở trẻ sơ sinh có thể dẫn đến hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh thiếu tháng.

Hậu quả của thiếu choline
- Triệu chứng thiếu choline cấp ở động vật bao gồm: gan nhiễm mỡ, chết tế bào gan, ung thư tế bào gan. Thiếu choline dài hạn ở chuột gây ung thư biểu mô tế bào gan.
- Nghiên cứu trên người cho thấy thiếu choline dễ gây tổn thương gan. Gan nhiễm mỡ có liên quan đến thiếu phosphotidylcholine (lecithine) cần thiết cho sự tổng hợp VLDL và loại triacylglycerol (triglycerides) ra khỏi gan. Bệnh nhân được nuôi ăn hoàn toàn qua đường tĩnh mạch trong 4 tuần mà không được cung cấp choline sẽ bị gan nhiễm mỡ và nồng độ của các chất alkaline phosphatase, alanine aminotransferase, aspartate aminotransfarase trong huyết thanh cao, cho thấy nhu cầu choline cho bệnh nhân nuôi ăn hoàn toàn qua đường tĩnh mạch.
- Trong nghiên cứu ở người, cả trí nhớ về ngôn ngữ lẫn hình ảnh đều bị suy giảm ở bệnh nhân được nuôi ăn hoàn toàn qua đường tĩnh mạch dài hạn, tuy nhiên cho thấy có cải thiện khi bổ sung choline.

3. Vai trò của choline trong cơ thể:
- Chức năng của choline là cung cấp gốc methyl cho sự tổng hợp methionine từ homocysteine. Vai trò này đặc biệt quan trọng khi cơ thể thiếu folate. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng cả methionine và acid folic cùng góp phần ngăn ngừa khiếm khuyết ống thần kinh như dị tật đốt sống chẻ đôi và thoát vị não bằng cách cung cấp nhóm methyl cho sự chuyển hóa hay làm giảm nồng độ homocysteine.
- Choline cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa bệnh tim. Bằng cách tham gia trong sự tổng hợp methionine từ amino acid homocysteine, đây là một yếu tố nguy cơ đã được biết gây bệnh lý tim mạch, do đó ngăn ngừa tích lũy homocysteine trong cơ thể. Ngoài ra, lecithin (phosphatidylcholine) cũng được sử dụng điều trị làm giảm nồng độ cholesterol nhằm tạo ra men lecithin-cholesterol acyltransferase tham gia vào việc lấy cholesterol ra khỏi mô cơ thể.
- Choline cần thiết cho sự phát triển bình thường của mô não trong quá trình phát triển của bào thai. Chuột con được cung cấp choline trong giai đoạn hình thành não ghi nhận có trí nhớ tốt hơn và thông minh hơn cho đến khi già.

4. Một số thực phẩm cung cấp choline:

Thực phẩm Hàm lượng choline (cho 1 khẩu phần)
Gan bò, 85 g 453,2 mg
Trứng, 50 g 280,0 mg
Thịt bò, 85 g 58,5 mg
Bông cải, 99 g 43,9 mg
Xà lách, 89 g 28,9 mg
Đậu phộng, 30 g 28,3 mg
Bơ đậu phộng, 32 g 26,1 mg
http://www.dinhduong.com.vn/story/choline-...-chat-thiet-yeu
------------------------------------------
Tại sao tôi cần Choline?

Choline giúp đẩy mạnh tiến trình sản xuất acetylcholine, 1 chất dẫn truyền rất quan trọng của hệ thần kinh và ảnh hưởng đến trí nhớ, sự kiểm soát cơ bắp và các chức năng khác. Choline cũng là một phần của một hợp chất trong mật.
Choline giúp duy trì màng tế bào2, và nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng choline có tác dụng đối với việc phát triển trí não

Nguồn Choline ở đâu?

Cơ thể của bạn có thể sản xuất ra choline từ axit amin thiết yếu methionine. Choline cũng được tìm trong nhiều thực phẩm như:

* Lòng đỏ trứng
* Đậu nành
* Thịt bò đã nấu chín
* Thịt gà
* Gan bê và gà tây
* Các loại rau quả

Nhu cầu bao nhiêu?

Tuổi---------------------Liều lượng khuyến nghị hằng ngày (mg/ngày)
0-5 tháng---------------125
6-11 tháng-------------150
1-3 năm----------------200
4-8 năm----------------250
9-13 năm---------------375
Bé gái 14-18 năm------400
Bé trai 10-13 năm-----550
Phụ nữ------------------425
Phụ nữ mang thai------450
Phụ nữ cho con bú-----550
Nam giới----------------550

Quá ít Choline
Hấp thụ ít choline có thể có những ảnh hưởng không tốt đến chức năng gan, và dường như làm tăng nhu cầu axit folic.

Quá nhiều Choline
Liều cao choline có thể gây ra của tuột huyết áp, đổ mồ hôi, tiêu chảy và cơ thể có mùi tanh.

http://www.milex.com.vn/Choline.aspx?ID=772
http://www.dinhduong.com.vn/story/choline-...-chat-thiet-yeu
-------------------------------------------------------------------


Go to the top of the page
 
+Quote Post
KinhThanh
bài Jan 28 2011, 06:26 AM
Bài viết #34


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Betaine
Tổng quan:
Betaine. hoặc khan betaine , là 1 chất dinh dưỡng được biết đến như 1 nhà tài trợ methyl ( chất dinh dưỡng khác như là S-adenosylmethionine (giống ), acid folic và vitamin B6 và B12). Điều này có nghĩa betaine mang và tặng các phân tử methyl trong cơ thể để giúp làm cho quá trình hóa học làm việc. KHoảng quyên hóp của các phân tử methyl có lien quan đến chức năng gan phù hợp và sinh sản của tế bào .Betaine cũng giúp cơ thể làm cho carnitine.

Bệnh tim

Nghiên cứu cho rằng betain, cùng với các chất dinh dưỡng khác được liệt kê ở trên ,giúp làm giảm mức độ độc hại của homocysteine, 1 acid tự nhiên đó, ở cấp cao , là 1 yếu tố nguy cơ bệnh tim và đột quỵ. Tuy nhiên ,các nhà khoa hoc vẫn chưa biết liệu homocysteine có ảnh hưởng trực tiếp gây hại trên các động mạch hay chỉ là 1 yếu tố nguy cơ .Mặc dù nghiên cứu cho thấy kết quả tích cực ,họ đã được nhở và hạn chế. Nếu bạn có nguy cơ bị bệnh tim ,bác sỹ có thể kiểm tra mức độ homocysteine trong mấu của bạn và đè nghị bổ sung lấy betain và các chất dinh dưỡng khác được liệt kê ở trên .

Homocystinuria
Một số người có một tình trạng di truyền homocystinuria gọi, trong đó mức độ homocysteine tích tụ trong cơ thể. Họ có nguy cơ cao hơn mắc bệnh tim mạch phát triển sớm nhất là độ tuổi 20.Betaine bổ sung được sử dụng để cấp dưới của homocysteine trong những người có điều kiện sức khỏe di truyền.

Bệnh gan
Nghiên cứu ở chuột cho thấy rằng betain có thể giúp bảo vệ chống lại các khoản tiền gửi béo trong gan, đó có thể xảy ra từ việc sử dụng rượu mãn tính, suy dinh dưỡng, béo phì, tiểu đường, và các nguyên nhân khác.Một vài nghiên cứu trên người cũng cho thấy kết quả tích cực, nhưng các nghiên cứu đã được các chất lượng khác nhau. Thậm chí có cả một số nghiên cứu cho thấy betain bảo vệ chống lại các tổn thương não gây ra bởi tiêu thụ rượu mãn tính.Cần thêm nghiên cứu để xác định xem betain là có lợi cho những người bị bệnh gan.

Làm thế nào để Take It:
Nhi


Betaine không được khuyến cáo cho trẻ em, trừ khi nó được quy định bởi bác sĩ để điều trị homocystinuria, một điều kiện di truyền.

Dành cho người lớn

Khuyến nghị liều betain thay đổi tùy theo tình trạng này đang được điều trị.
Bệnh tim mạch: 1.500 - 3.000 mg mỗi ngày
Homocystinuria: 6 g / ngày

Nó thường được khuyến cáo rằng betain được kết hợp với acid folic, vitamin B6 và vitamin B12.

Thận trọng:
Ở những người bị bệnh thận, betain có thể can thiệp bằng thuốc đưa đến mức cholesterol trong máu thấp hơn.

Tên thay thế:

Trimethylglycine

em xét lại lần cuối vào: 2009/03/14
Steven D. Ehrlich, NMD, tư nhân thực hành chuyên về y học bổ sung và thay thế, Phoenix, AZ. Xem lại được cung cấp bởi VeriMed Chăm sóc sức khỏe mạng.

http://translate.google.com.vn/translate?h...2%26prmd%3Divns

Betaine hydrochloride

Betaine hydrochloride là một nguồn axit hydrochloric, một acid tìm thấy trong dịch tiêu hóa đó là tham gia vào việc sản xuất các enzyme pepsin. Pepsin giúp tiêu hóa protein.

Hydrochloric acid cũng kiểm soát các cấp độ của vi khuẩn và nấm men.

Không có nguồn thực phẩm của betaine hydrochloride và nó không phải là một chất dinh dưỡng cần thiết.

An toàn

Không có nghiên cứu dài hạn đã được kiểm tra an toàn của betaine hydrochloride ở người.Betaine hydrochloride không được sử dụng bởi những người có vết loét hoặc ợ nóng, trừ khi được cố vấn bởi bác sĩ của mình.

http://translate.google.com.vn/translate?h...2%26prmd%3Divns

Betaine trong dinh dưỡng con người

TÓM TẮT

Betaine được phân phối rộng rãi trên động vật, thực vật và vi sinh vật, và các nguồn giàu có chế độ ăn uống bao gồm thủy sản, đặc biệt là vật không xương sống biển (≈ 1%), mầm lúa mì hoặc cám (≈ 1%); và rau bina (≈ 0,7%).Vai trò sinh lý chủ yếu của betain là như là một osmolyte và các nhà tài trợ methyl (transmethylation).Như osmolyte một, betain bảo vệ tế bào, protein và enzym từ stress môi trường (ví dụ, ít nước, độ mặn cao, hoặc nhiệt độ cực đoan).Là một nhà tài trợ methyl, betain tham gia vào chu trình methionine-chủ yếu ở gan và thận.Không đầy đủ chế độ ăn uống của các nhóm methyl dẫn đến hypomethylation trong nhiều con đường quan trọng, bao gồm 1) bị xáo trộn protein gan (methionine) trao đổi chất được xác định theo nồng độ homocysteine trong huyết tương tăng cao và giảm-adenosylmethionine nồng độ S, và 2) không đủ chất béo chuyển hóa gan, dẫn đến gan nhiễm mỡ (béo tích tụ) và rối loạn lipid máu huyết tương tiếp theo. Điều này thay đổi trong trao đổi chất của gan có thể đóng góp cho các bệnh khác nhau, bao gồm bệnh mạch vành, não, gan, và mạch máu.Betaine đã được chứng minh để bảo vệ cơ quan nội tạng, cải thiện các yếu tố nguy cơ mạch máu, và tăng cường hiệu suất.Databases of betaine content in food are being developed for correlation with population health studies. Cơ sở dữ liệu của nội dung betain trong thực phẩm đang được phát triển cho tương quan với các nghiên cứu sức khỏe dân cư.Các cơ thể ngày càng tăng của các bằng chứng cho thấy, betain là một chất dinh dưỡng quan trọng để phòng ngừa các bệnh mãn tính.

GIỚI THIỆU

Betaine được tìm thấy trong các vi sinh vật, thực vật và động vật và là một thành phần quan trọng của nhiều loại thực phẩm ( 1 - 10 ), bao gồm lúa mì, đồ biển, rau bina, và củ cải đường.Betaine là một hợp chất amoni bậc bốn zwitterionic mà còn được gọi là trimethylglycine, betain glycine, lycine, và oxyneurine.Đây là một dẫn xuất methyl của acid amin glycine với một công thức (CH 3) 3 N 2 + CH COO - và trọng lượng phân tử 117,2 một, và nó đã được mô tả như là một methylamine vì phản ứng của các nhóm methyl hóa học 3 ( 11 ).Betaine lần đầu tiên được phát hiện trong nước của củ cải đường (Beta vulgaris) trong thế kỷ 19 và sau đó đã được tìm thấy trong một số sinh vật khác.Các chức năng sinh lý của betain là hoặc như là một osmolyte hữu cơ để bảo vệ các tế bào bị căng thẳng hoặc như là một nguồn dị hóa của các nhóm methyl qua transmethylation để sử dụng trong rất nhiều con đường sinh hóa ( 12 ).

Vai trò nguyên tắc cho betain ở thực vật và vi sinh vật là bảo vệ tế bào chống lại bất hoạt thẩm thấu ( 13 ).Exposure to drought, high salinity, or temperature stress triggers betaine synthesis in mitochondria, which results in its accumulation in the cells. Tiếp xúc với hạn hán, độ mặn cao, hoặc nhiệt độ căng thẳng gây nên tổng hợp betain trong ty thể, dẫn đến tích tụ trong các tế bào. Betaine is a compatible osmolyte that increases the water retention of cells, replaces inorganic salts, and protects intracellular enzymes against osmotically induced or temperature-induced inactivation ( 11 , 14 - 19 ). Betaine là một osmolyte tương thích làm tăng khả năng giữ nước của các tế bào, thay thế muối vô cơ, và bảo vệ các enzyme trong tế bào chống lại hoặc ngừng hoạt động do nhiệt độ gây ra osmotically ( 11 , 14 - 19 ).Ví dụ, rau bina được trồng trong đất mặn, và betaine có thể tích lũy với số lượng lên đến 3% trọng lượng tươi. This enables the chloroplasts to photosynthesize in the presence of high salinity ( 20 ). Điều này cho phép các lạp lục để quang hợp trong sự hiện diện của độ mặn cao ( 20 ).

Betaine đã được sử dụng như là một bổ sung thức ăn chế độ ăn uống trong dinh dưỡng động vật cho y 50>, và điều này đã cung cấp những hiểu biết sử dụng hữu ích trong dinh dưỡng con người.Betaine được thêm vào thức ăn cho cá nuôi như là một osmolyte để bảo vệ cá từ sự căng thẳng của di chuyển từ thấp đến độ mặn cao.Cá hồi gan ty thể chủ động mất betain khi tiếp xúc với stress thẩm thấu, và các hoạt động trao đổi chất sẽ được giảm đến một mức độ lớn hơn nhiều nếu betain không có mặt ( 13 ).Betaine bảo vệ các tế bào ruột gà nhiễm coccidia, làm giảm bớt triệu chứng, và cải thiện hiệu suất ( 21 - 23 ). Cầu trùng đường ruột ảnh hưởng đến cân bằng ion và hình thái đường ruột, dẫn đến maldigestion, kém hấp thu, và mất nước.Là một nhà tài trợ methyl, betain cung cấp cho các đơn vị một carbon, có thể thay thế được số lượng methionine chế độ ăn uống và choline cần thiết cho dinh dưỡng tối ưu. For example, betaine improves growth and the efficiency of food utilization and reduces body fat in pigs and chicks ( 23 - 27 ). Ví dụ, betain cải thiện tăng trưởng và hiệu quả của việc sử dụng thức ăn và làm giảm mỡ cơ thể ở lợn và gà con ( 23 - 27 ).

Con người có được betain từ các loại thực phẩm có chứa hoặc betain hoặc có chứa các hợp chất choline. Betaine có mặt trong thực phẩm với số lượng biến mà thường liên quan đến phát triển và điều kiện áp lực thẩm thấu.Một số ví dụ về các thực phẩm có nội dung betain cao được thể hiện trong Bảng 1 , Các nguyên tắc số phận trao đổi chất choline là thông qua quá trình oxy hóa không thể đảo ngược để betain trong gan và thận ( 28 - 32 ) thông qua một quá trình hai bước (Hình 1 ). choline đầu tiên, bị ôxi hóa betaine aldehyde dehydrogenase choline của enzyme.Enzyme này cũng có thể chuyển đổi aldehyde betain để betain sự hiện diện của NAD + ( 33 ).Choline dehydrogenase hoạt động xảy ra trong ty thể, về phía ma trận của màng trong ( 34 - 36 ).aldehyde Betaine sau đó được ôxi hóa thành betain của NAD + phụ thuộc vào enzyme betaine aldehyde dehydrogenase cả trong ty thể và trong bào tương ( 37 ).hần còn lại của choline chế độ ăn uống được sử dụng để làm cho acetylcholine và phospholipid như phosphatidylcholine. A diet of normal foods is estimated to deliver 1 g choline/d ( 38 ). Một chế độ ăn các loại thực phẩm bình thường được ước tính để cung cấp 1 choline g / d ( 38 ).

Một Bộ Nông nghiệp Mỹ cơ sở dữ liệu của choline và betaine nội dung của thực phẩm đã được phát triển ( 3 Các nội dung betain các loại thực phẩm đã được tìm thấy để thay đổi khi các nguồn thực phẩm khác nhau, cá nhân được phân tích và khi các phương pháp nấu ăn khác nhau được sử dụng, ví dụ, đun sôi dẫn đến sự mất mát lớn nhất của betain ( 39 ). Cơ sở dữ liệu toàn diện sẽ cung cấp một xác định chính xác hơn về các mô hình chế độ ăn uống của betaine và có thể được sử dụng trong các nghiên cứu dịch tễ học để thiết lập bất cứ mối tương quan với giảm nguy cơ mắc bệnh.Nghiên cứu trước đây đưa ra giả thuyết rằng betain trong rượu vang đỏ ( 40 ) và hạt ngũ cốc ( 41 ) có thể bảo vệ chống lại bệnh động mạch vành.Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ do đó cơ sở dữ liệu được xem như một ưu tiên cao cho nghiên cứu sâu hơn ( 42 ).Betaine cũng có thể được thêm vào chế độ ăn uống như thuốc bổ.Nó là thành phần đạm chính của củ cải đường và chiết xuất từ mật thương mại của sắc ký tách nước và các kết tinh.

Đường ruột hấp thụ và chuyển hóa

Tế bào hấp thu betain đã được mô tả trong nhiều sinh vật từ vi khuẩn đến động vật ( 43 - 50 ). Tích lũy được thông qua hoạt động Na + hoặc Cl - cùng và + độc lập hệ thống vận tải Na thụ động.Là một methyl hóa amino acid-N, betain được vận chuyển bằng hệ thống giao thông vận tải chủ yếu là acid amino-aminobutyric acid của γ-betain vận tải và hệ thống vận chuyển amino acid A ( 51 - 54 ).Animal studies showed rapid postprandial absorption of betaine in the small intestine via the duodenum ( 22 , 50 ). Động vật nghiên cứu cho thấy sự hấp thu nhanh chóng sau ăn của betaine trong ruột non thông qua tá tràng ( 22 , 50 ).

Con người nghiên cứu về lượng betain cho thấy hấp thụ nhanh chóng và phân phối, với mức tăng cao nhất trong huyết thanh ở ≈ betain 1-2 h ( 55 - 57 ).Resting concentrations of betaine in human serum range from ≈20 to 70 µmol/L ( 55 - 60 ), with concentrations similar in diabetic subjects but lower in subjects with renal disease ( 60 ). Nghỉ ngơi nồng độ huyết thanh betain trong phạm vi của con người từ ≈ 20-70 mmol / L ( 55 - 60 ), với nồng độ tương tự trong các đối tượng mắc bệnh tiểu đường nhưng thấp hơn ở các đối tượng có bệnh thận ( 60 ). nồng độ cao của betain được tìm thấy ở, vật nuôi trẻ sơ sinh của con người, có thể là do sự trao đổi chất choline ( 61 ). Betaine chủ yếu là loại bỏ bởi sự trao đổi chất, không bài tiết, ngay cả ở liều lượng tương đối cao là 100 mg / kg trọng lượng cơ thể ( 56 ).Tuy nhiên, bài tiết nước tiểu betain tăng trong các đối tượng có bệnh thận hoặc bệnh tiểu đường ( 60 , 62 - 64 ).Bán cấp và nghiên cứu chuột subchronic xác định rằng betain là không độc ở tất cả các liều nghiên cứu (0-5% của chế độ ăn uống) ( 65 ). At high doses, red blood cell physiology was mildly perturbed, and variations in findings between studies were explained as a difference in chow formulation. Ở liều cao, sinh lý tế bào máu đỏ đã bị nhiễu loạn nhẹ, và các biến thể trong kết quả giữa các nghiên cứu đã giải thích như là một sự khác biệt trong việc xây dựng chow.Các tác giả kết luận betain đó là an toàn tại một lượng hàng ngày 9-15 g (trung bình là 12 g).

Betaine là catabolized thông qua một chuỗi các phản ứng enzyme xảy ra chủ yếu trong ti thể của tế bào gan và thận.Các phản ứng này transmethylation liên quan đến việc chuyển giao methyl (một-carbon) nhóm thông qua các chu kỳ methionine (Hình 1 Go ) in vital biological processes ( 66 - 76 ). ) Việc chuyển đổi các homocysteine để methionine là quan trọng để bảo tồn methionine, homocysteine giải độc, và sản xuất S-adenosylmethionine (SAM) ( 77 ).nồng độ homocysteine nâng lên tổng số và nồng độ thấp SAM có liên quan với bệnh mãn tính (thảo luận chi tiết sau).Sự hình thành methionine từ homocysteine có thể xảy ra hoặc thông qua betain hoặc qua methyltetrahydrofolate-5 (CH 3-THF).nghiên cứu động vật đã chỉ ra rằng cả hai con đường đều quan trọng như nhau ( 78 , 79 ) và betaine đó là một tác nhân quan trọng methylating ( 80 , 81 ).Betaine chuyển một nhóm methyl qua betain methyl transferase enzyme homocysteine (BHMT) để trở thành dimethylglycine.Các CH 3-THF phản ứng sử dụng các enzym tổng hợp methionine enzyme để chuyển một nhóm methyl vào các cobalamin đồng yếu tố (vitamin B-12), tạo thành methylcobalamin.Sau đó chuyển methylcobalamin các methyl để homocysteine thành methionine.
Methylenetetrahydrofolate reductase (MTHFR) có liên quan đến cải cách CH 3-THF từ methylene-THF.Ngoài ra, homocysteine có thể được chuyển hóa qua transulfuration mẫu cystathionine.Điều này được xúc tác bởi enzym tổng hợp cystathionine-ß (CBS), trong đó sử dụng vitamin B-6 (pyridoxine) như là một đồng yếu tố.BHMT, trước đây gọi là betain transmethylase, là một metalloenzyme kẽm trong một hình dạng méo mó / thùng ( 82 - 84 ) với một độ pH tối ưu là 7,8 ( 85 ) xảy ra ở gan thận, con người, và ống kính quang ( 85 - 89 ).BHMT gan nồng độ tăng lên khi chuột được cho ăn thức ăn bổ sung với betain hoặc choline ( 90 ), cho thấy một sự thay đổi thích ứng trong dị hóa của betaine.BHMT được thể hiện trong vỏ trong tế bào gan thận và gan ở người, lợn và chuột ( 91 ).

Betaine methionine tăng huyết thanh, tỷ lệ transmethylation, remethylation homocysteine, và quá trình oxy hóa methionine ở người lớn khỏe mạnh ( 92 ).Con vật tiêm betain ( 93 ) cho thấy một phụ thuộc vào liều tăng trong máu hồng SAM-một nhà tài trợ methyl trực tiếp trong nhiều con đường quan trọng, bao gồm tổng hợp các protein, creatine, phospholipid, kích thích tố, polyamines, carnitine, adrenaline, và methyl hóa ADN.Vì vậy, trao đổi chất đường kết nối chặt chẽ transmethylation choline, betain, methionine, CH 3-THF, và vitamin B-6 và B-12, giao nhau ở sự hình thành của methionine từ homocysteine.Nhiễu loạn trao đổi chất của một trong những kết quả này thay đổi con đường trong đền bù ở những người khác ( 94 ).Ví dụ, methylene-THF có thể được tái sinh qua serine hoặc betain các chất chuyển hóa dimethylglycine, sarcosine, và glycine ( 55 , 95 ).

OSMOLYTE

Nếu không catabolized betain, nó được sử dụng như là một osmolyte hữu cơ.Các quy định của nhà nước hydrat hóa tế bào, và do đó khối lượng tế bào, quan trọng là duy trì chức năng tế bào.con đường trao đổi chất nhạy cảm bao gồm doanh thu protein, acid amin và sự trao đổi chất amoniac, carbohydrate và chuyển hóa acid béo, vận chuyển màng plasma, bài tiết mật, kiểm soát độ pH, và biểu hiện gen ( 96 ).Tế bào thích ứng với stress thẩm thấu bên ngoài bằng cách tích lũy thấp trọng lượng phân tử ion vô cơ (ví dụ, natri, kali, clorua) và osmolytes hữu cơ (ví dụ, các amin methyl, amino axit nhất định, và rượu đường).Tuy nhiên, sự gia tăng nồng độ nội bào của các ion vô cơ bị hạn chế vì hiệu ứng gây bất ổn định của họ về cấu trúc protein và chức năng enzym ( 43 , 97 - 100 ).Betaine là nonperturbing để chuyển hóa tế bào, rất phù hợp với chức năng enzym, và chức năng trao đổi chất của tế bào ổn định theo các loại căng thẳng ( 7 , 11 , 37 ) trong các sinh vật khác nhau và mô động vật ( 101 - 103 ).Cơ học nghiên cứu cho thấy rằng có rất ít hoặc không có tính ràng buộc của betain các bề mặt protein, cho phép các tế bào để kiểm soát sức căng bề mặt nước mà không ảnh hưởng đến sức mạnh ion của môi trường, ví dụ như, ổn định lipase ( 104 ).Betaine là osmolyte hiệu quả nhất nghiên cứu để hydrat hóa của albumin ( 17 ), hình thành gần như một đơn lớp đầy đủ các nước xung quanh protein, và betaine có thể duy trì solvation hemoglobin ( 105 ).
Có nhiều ví dụ về chức năng osmolyte của betaine.Nó tích tụ trong thận ( 106 - 111 ) từ nguồn gốc ngoại sinh hơn là sự tổng hợp de novo ( 47 , 112 , 113 ) để bảo vệ các tế bào từ nồng độ cao của điện ( 114 ) và urê ( 115 ).Betaine điều biến chức năng miễn dịch trong osmotically nhấn mạnh các đại thực bào gan (Kupffer tế bào) thông qua yếu tố hoại tử khối u α phát hành ( 116 ), thực bào ( 117 ), và ức chế sự hình thành prostaglandin và cyclooxygenase biểu thức 2 ( 118 ).Nó điều chỉnh cân bằng nước và chuyển động trên biểu mô đường ruột ( 119 ). Betaine điều chỉnh tế bào máu đỏ) màng ATPases (hồng cầu thông qua những thay đổi conformational, mà kết quả trong kiểm soát lượng tế bào ( 120 ).Nó bảo vệ cơ ATPases myosin cấu trúc xương và ngăn ngừa những thay đổi myosin do urê ( 121 ).Betaine cũng bảo vệ phôi trong ống nghiệm đầu preimplantation ( 122 ) và ngăn ngừa apoptosis (lập trình tế bào chết) do stress trương trong các tế bào nội mô phổi lợn động mạch ( 123 ).Do đó, điều này thích ứng với stress thẩm thấu giúp nhiều tế bào và các cơ quan tiếp tục hoạt động và bảo vệ chống lại apoptosis sớm.

GAN Y TẾ

Nonalcoholic bệnh gan nhiễm mỡ (NAFLD) là một thuật ngữ tương đối gần đây mô tả một loạt các tiến bộ của bệnh lý gan nhiễm mỡ gan từ đơn giản (chất béo tích tụ) đến gan nhiễm mỡ (béo viêm), xơ hoá (quá nhiều mô xơ), và xơ gan (gan nghiêm trọng thiệt hại) ( 124 ).NAFLD ảnh hưởng đến ≈ 20% dân số toàn cầu nói chung, ≈ 50% của các đối tượng mắc bệnh tiểu đường,> 50% số người béo phì, và 90% người béo phì bệnh hoạn ( 125 ).Đó là bây giờ được công nhận là sự biểu hiện gan của hội chứng chuyển hóa ( 126 ).Sự thay đổi trong transmethylation gan có thể đóng góp cho các bệnh khác nhau, bao gồm, não, gan, và các bệnh mạch vành ( 127 ).Một biểu hiện, gan nhiễm mỡ gan (gan nhiễm mỡ), là một kết quả phổ biến của bệnh béo phì, tiêu thụ của một chế độ ăn giàu chất béo, kháng insulin, tiểu đường, uống rượu, và tổn thương gan khác ( 128 ).

Betaine là một lipotrope-cái gì mà ngăn cản hay làm giảm tích tụ mỡ trong gan.Các nghiên cứu về động vật khỏe mạnh và bệnh tiểu đường cho thấy rằng một chế độ ăn giàu chất béo dẫn đến gan nhiễm mỡ gan được ngăn ngừa bằng cách uống betain hoặc choline ( 129 - 131 ).Gan nhiễm mỡ cũng xảy ra như là kết quả của một chế độ ăn uống chỉ sucrose ( 130 ) hoặc chế độ ăn uống thấp trong cả hai lipotrope và chất béo ( 132 ).Betaine có thể ngăn ngừa và chữa bệnh xơ gan ở chuột ( 133 , 134 ), huy động cholesterol và phospholipid trong gan chuột được cho ăn một chế độ ăn giàu cholesterol ( 135 ), điều trị tăng lipid máu ( 136 ), và được sử dụng trong tổng hợp carnitine ( 137 ).Thức ăn betain tăng cường sự tiết VLDL qua methyl hóa phosphatidylethanolamine ( 138 ) để hình thành phosphatidylcholine.Phosphatidylethanolamine N-methyltransferase chuột loại trực tiếp ( 139 ) phát triển gan nhiễm mỡ và chất chuyển hóa bất thường mặc dù nồng độ choline nuốt một chế độ ăn uống được đề nghị của choline.Điều này nêu bật tầm quan trọng của tuyến đường SAM để duy trì sức khỏe gan.Một giả thuyết liên quan đến tài sản lipotropic của betain là nó có chứa một nhóm methyl lực điện tử mà ameliorates bệnh lý gây ra bởi các tiểu bang và ức chế suy giảm oxy hóa ( 140 ).

Con người với triển lãm gan nhiễm mỡ, tiểu đường và nghiên cứu ban đầu cho thấy chế độ ăn uống betain cải thiện chức năng gan ( 141 - 143 ), bao gồm giảm nhẹ cholesterol và lipid trong huyết tương, giảm đáng kể trong bilirubin huyết tương, làm giảm kích thước gan, và kiểm soát bệnh tiểu đường tốt hơn .Một số đánh giá ( 125 , 128 , 144 - 149 ) khuyên bạn nên sử dụng để điều trị NAFLD betain, kể cả gan nhiễm mỡ nonalcoholic (NASH).Một nghiên cứu thử nghiệm y-1 ( 150 ) cho thấy, betain (20 g / ngày) là an toàn và dung nạp tốt và dẫn đến sinh hóa đáng kể và cải thiện mô học ở bệnh nhân bị NASH.Điều này bao gồm cải tiến ở nồng độ huyết thanh của các men gan (aspartate aminotransferase và alanine aminotransferase), trong gan nhiễm mỡ, lớp necroinflammatory, và trong giai đoạn xơ hóa.Betaine glucuronate bổ sung (phối hợp với glucuronate diethanolamine và ascorbate nicotinamide) của bệnh nhân với NASH làm giảm gan nhiễm mỡ gan và làm giảm đáng kể transaminase gan (alanine aminotransferase, aspartate aminotransferase, và γ glutamyltransferase-) ( 151 ).

Betaine bảo vệ gan chuột từ độc tố như chloroform ( 54 , 152 , 153 ), lipopolysaccharide ( 154 ), methotrexate ( 155 , 156 ), và carbon tetrachloride ( 157 - 159 ). tác động cụ thể bao gồm giảm lipidosis gan và hoại tử; cải thiện hình thái học của ty thể, lưới nội chất thô, khu phức hợp Golgi, và ADN hạt nhân; tăng BHMT và SAM, và giảm alanine aminotransferase.Betaine cũng bảo vệ chống lại gây ra apoptosis mật thông qua sự ức chế con đường proapoptotic ty thể ( 160 ). Dùng đồng thời liều đẳng mol của betaine có thể làm giảm bớt nguy cơ bị hại gan liên quan với liệu pháp niacin ( 161 ) vì niacin dị hóa dẫn đến một nhu cầu cao đối với các nhóm methyl, dẫn đến việc giảm nồng độ gan của SAM.Một thiếu nhóm methyl cũng có thể góp phần gây ra niacin kháng insulin bằng cách thay đổi các tính chất màng của cơ xương.

Ethanol cho ăn có thể ảnh hưởng một số enzym gan động vật, bao gồm giảm hoạt động synthetase methionine ( 162 ). Điều này dẫn đến hoạt động BHMT tăng lên để duy trì SAM gan ở nồng độ bình thường ( 163 - 165 ). Betaine bổ sung ăn động vật rượu ngăn ngừa và đảo ngược một phần gan nhiễm mỡ do rượu ( 165 - 167 ); giảm homocysteine và S-adenosylhomocysteine (Sah) nồng độ, căng thẳng lưới nội chất, và tổn thương gan ( 168 - 170 ); ngăn ngừa tích tụ gây ra ethanol của CH 3-THF (methyl-folate bẫy) ( 171 ); bảo vệ màng tế bào hồng cầu ( 172 ); và ngăn ngừa sự suy giảm vitamin A và thiệt hại peroxidative ( 173 ).Ethanol cao độ gây ra trong gan của Sah nồng độ ức chế hoạt động của methyltransferase phosphatidylethanolamine, đó là cần thiết để đạt được nồng độ đủ phosphatidylcholine ( 139 ).Điều này có thể làm giảm sự ức chế tổng hợp VLDL và vận chuyển của triacylglycerol trong gan ( 174 ) và do đó ít nhất một phần giải thích gan nhiễm mỡ gan do ăn ethanol. Độ cao với tỷ lệ SAM để Sah của betaine có thể cải thiện các tín hiệu và di truyền hypomethylation bị thay đổi do ethanol và chất béo cao một ( 175 ).SAM hiện đang sử dụng thành công để điều trị bệnh gan và chứng bệnh khác, và betaine có thể là một liệu pháp thay thế ( 77 ).

Homocysteine cao trong huyết thanh là thường xuyên ở những bệnh nhân có bệnh gan mãn tính, và liều lượng folate cao, cobalamin, và vitamin B-6 thường xuyên không bình thường hóa nồng độ homocysteine ( 176 ). Ngoài ra, nồng độ trong huyết tương của chất chuyển hóa betain (dimethyl glycine và sarcosine) tăng do hoạt động tăng của BHMT ( 177 ). Tuy nhiên, BHMT hoạt động của enzym là giảm trong gan chuột xơ gan, có thể giải thích nồng độ homocysteine cao trong xơ gan ( 178 ). Một bài xã luận gần đây ( 87 ) cho rằng "các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào các nội dung chế độ ăn uống của choline và khả năng rằng việc bổ sung choline hoặc betain sẽ khôi phục nồng độ nội bào của betain cần thiết cho methyl hóa homocysteine."

Y tim

Một loạt các giấy tờ ( 179 - 182 ) cho thấy một sự kết hợp của betaine và guanidinoacetate (glycocyamine) cải thiện các triệu chứng của các đối tượng có bệnh mãn tính, bao gồm cả bệnh tim, không có độc tính.Betaine có thể cung cấp một nhóm methyl để guanidinoacetate, qua methionine, cho sự hình thành của creatine ( 179 ). Nhìn chung, điều trị đã dẫn đến một ý nghĩa cải thiện sức mạnh khỏe, ít mệt mỏi hơn, và sức chịu đựng, và tăng ham muốn (và thực hiện các) công việc thể chất và tinh thần. Đối tượng với mất bù tim (xơ cứng động mạch, bệnh thấp khớp) ( 180 ) và suy tim sung huyết ( 181 ) đã được cải thiện chức năng tim.Đối tượng tăng cân (tăng nitơ dư) và báo cáo các triệu chứng của viêm khớp giảm đi và bệnh hen suyễn và ham muốn tình dục tăng lên, và những người có kinh nghiệm cao huyết áp thoáng qua áp lực máu giảm.Dung nạp glucose tăng trong cả hai đối tượng mắc bệnh tiểu đường và các chuyên ngành mà không có bệnh tiểu đường.Đó là kết luận do đó năm 1951 rằng "... tiếp tục đánh giá của các hợp chất này ở những bệnh nhân bị bệnh tim là cả mong muốn và xứng đáng" ( 182 ).

Trong cùng năm đó, Morrison ( 183 ) kết luận rằng xơ vữa động mạch là một lỗi trao đổi chất ngăn ngừa và tiêu hóa của đại lý lipotropic là một phần của một chiến lược phòng ngừa.Ông đã cho thấy rằng điều trị xơ vữa động mạch betain cải thiện tỷ lệ phospholipid huyết thanh cholesterol huyết thanh, tinh thần của người, tập thể dục tốt và hoạt động, sự ngon miệng, đau thắt ngực, khó thở (khó thở), và ham muốn tình dục ( 184 ). Morrison được tìm thấy "... betain là có giá trị nhất và hiệu quả nhất lipotropic đại lý được thử nghiệm để điều trị trong các chủ đề con người" ( 184 ). Cuối cùng, một sự kết hợp lipotrope betain (betain, choline, gan, giải nén, vitamin B-12, và một chất béo, cholesterol thấp chế độ ăn uống thấp) dẫn đến việc giảm ấn tượng trong những tỷ lệ tử vong của các đối tượng với xơ vữa động mạch ( 185 ). Có một tỷ lệ tử vong 25% sau 12 mo trong nhóm kiểm soát nhưng không có ca tử vong ở nhóm lipotrope.

Betaine nghiên cứu trên động vật thí nghiệm cho thấy với xơ vữa động mạch làm giảm tổng số ràng buộc cao và cholesterol ester, lipoprotein ß-, tổng số chất béo trong huyết thanh, và cholesterol toàn phần và các triacylglycerol trong gan ( 186 ).Betaine ngăn ngừa sự suy giảm nội dung của coenzyme nicotinamide adenine và nucleotide trong gan và cơ tim ( 187 ) và làm tăng cholesterol chuyển đổi của các acid mật để bài tiết tiếp theo với các mật ( 188 ).Điều này đã được đề xuất như là một trong những cơ chế cho các hành động antiatherosclerotic của betaine. Một nghiên cứu của các vận động viên ( 57 ) thực hiện ở nhiệt thấy rằng cấp betain uống nhanh chóng giảm LDL-cholesterol huyết tương nồng độ (đo sau 145 phút). Tuy nhiên, betain nâng tổng số huyết thanh và nồng độ LDL-cholesterol hơi trong một nghiên cứu của các đối tượng béo phì, tiêu thụ một chế độ ăn hypoenergetic ( 189 ).

HOMOCYSTEINEMIA

Dịch tễ học nghiên cứu cho thấy rằng người có một homocysteine nồng độ huyết thanh cao, được gọi là (e) inemia hyperhomocyst hoặc homocyst (e) inemia, đã tăng rủi ro của bệnh tim mạch, đột quỵ, bệnh Alzheimer, sa sút trí tuệ, khiếm khuyết ống thần kinh, và các rối loạn trao đổi chất khác ( 190 - 197 ).Ăn chay homocysteine cao trong huyết thanh và tăng phản ứng một của homocysteine sau khi tải methionine (postmethionine) là những yếu tố nguy cơ độc lập đối với bệnh tim mạch ( 198 ). etaine có thể cải thiện cả hai yếu tố nguy cơ, và ở người có bệnh tim mạch, có một mối quan hệ nghịch đảo có ý nghĩa giữa betain huyết tương và nồng độ homocysteine trong lúc đói ( 199 ) và postmethionine ( 200 ) tiểu bang. Một chế độ ăn uống giàu betain có thể giảm nguy cơ bệnh tim mạch ở người khỏe mạnh ( 201 ).

Homocysteinemia là do sự mất cân bằng một trong các chu kỳ methionine bởi vì hoặc khuyết tật di truyền hoặc nongenetic (ví dụ, dinh dưỡng) cho kết quả trong homocysteine trong huyết thanh tăng cao.Mãn tính độ cao của các kết quả homocysteine trong Sah tăng song song trong nội bào, và điều này, kết hợp với các SAM: tỷ lệ Sah, là tiên đoán về tình trạng methyl hóa di động ( 202 ). Các mức độ nghiêm trọng của triệu chứng lâm sàng tương quan với mức độ bất thường sinh hóa. hòng ngừa hay điều trị, chẳng hạn như kích hoạt các hoạt động khiếm khuyết enzyme (đột biến) với đồng yếu tố có liên quan hoặc tiền thân của nó (ví dụ, axit folic hoặc vitamin B-12 hoặc B-6), dựa vào nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng của lỗi này. Nếu homocysteinemia không đáp ứng với điều trị này, liều dược của betain hoặc axit folic đã được sử dụng để nâng cao con đường thay thế doanh thu homocysteine ( 203 , 204 ).

Homocystinuria

Homocysteinemia nghiêm trọng, đó là do rối loạn chức năng di truyền đồng hợp tử di truyền (bẩm sinh lỗi trong quá trình chuyển hóa), thường được gọi là homocystinuria. tỷ lệ này thay đổi địa lý và được ước tính là 1 / 200 000 trên toàn thế giới ( 205 ). Các triệu chứng liên quan bao gồm chậm phát triển tâm thần homocystinuria, động kinh, rối loạn tâm thần, chậm phát triển tâm thần, chuyển của thấu kính của mắt (thủy tinh lạc vị), bất thường xương (loãng xương và vẹo cột sống), và xơ cứng động mạch và huyết khối có thể dẫn đến biến chứng đe dọa cuộc sống ( 205 ). Homocystinuria có thể được gây ra bởi sự thiếu hụt của CBS, MTHFR, hoặc tổng hợp methylcobalamin (Hình 1 Go ).Một số nhà điều tra đã xác định rằng có thể làm giảm nồng độ betain homocysteine và cải thiện một số điều kiện lâm sàng không có sự kiện bất lợi ( 206 ). Một số nghiên cứu kéo dài 13-16 y, và liều lượng đã được thường 6 g / d.

CBS ngưng tụ homocysteine và serine mẫu cystathionine.Vitamin B-6 là một đồng yếu tố cho CBS, và ≈ 50% của các đối tượng với homocystinuria đáp ứng các vitamin B-6 điều trị. Homocystinuria đó không phải là đáp ứng với vitamin B-6 có nhiều khó khăn hơn để điều trị ( 207 ), nhưng betain, hoặc một mình hoặc kết hợp với phương pháp điều trị khác, cải thiện triệu chứng lâm sàng, làm giảm homocysteine, và tăng huyết tương methionine, serine, và cysteine nồng độ ( 208 - 221 ). Homocysteine cũng tích tụ trong hệ thống thần kinh trung ương ở CBS thiếu hụt và có thể đóng một vai trò trong các biến chứng thần kinh. Betaine điều trị ở trẻ em đáng kể làm giảm homocysteine trong dịch não tủy và làm tăng nồng độ và SAM serine ( 222 ). Các nghiên cứu về MTHFR thiếu ( 223 - 230 ) cho thấy rằng cải thiện remethylation betain homocysteine, làm giảm homocysteine huyết tương, huyết tương bình thường hóa methionine rất thấp, nâng cao SAM, và dẫn đến cải thiện lâm sàng. Một khuyết tật trong C-cobalamin (vitamin B-12) kết quả kích hoạt trong acidemia methylmalonic và homocystinuria, và điều trị với cobalamin, folate, hoặc vitamin B-6 không hoàn toàn chính xác những khiếm khuyết sinh hóa. Bổ sung betain dẫn đến homocysteine bình thường hóa và cải thiện lâm sàng ( 231 - 234 ).

Betaine ngăn chặn cơn động kinh ở động vật gây ra bởi homocysteine ( 235 ), sốc electroconvulsive và pentylenetetrazol ( 236 , 237 ), và strychnine ( 238 , 239 ) và trì hoãn sự khởi đầu của suy giảm thần kinh do vitamin B-12 thiếu ( 240 ). Hội chứng Rett là do đột biến ở gen MECP2 ( 241 ), và một nghiên cứu lâm sàng hiện nay là đánh giá xem betain và acid folic có thể làm tăng mức độ methyl hóa của một số trang CpG về DNA và do đó đề cải thiện triệu chứng ( 242 ). Một nhãn thí điểm nghiên cứu mở của bệnh nhân với bệnh Alzheimer không tìm thấy một lợi ích từ điều trị betain ( 243 ), mặc dù hiệu quả không thể xác định được vì không có nhóm chứng.

Nhẹ homocysteinemia

Homocysteinemia nhẹ hơn rất nhiều điểm chung hơn là homocystinuria và được đặc trưng bởi tăng nhẹ nhịn ăn hoặc postmethionine nồng độ homocysteine. Gộp dữ liệu từ nhiều nghiên cứu cho thấy nhẹ homocysteinemia xảy ra trong 9-42% của các đối tượng dưới 50 tuổi y của những người có ngoại vi hoặc bệnh tắc động mạch não, nhồi máu cơ tim, hoặc thuyên tắc huyết khối ( 244 ). Mild postmethionine homocysteinemia is present in 21% of young patients with coronary artery disease, 24% of patients with cerebrovascular disease, and 32% of patients with peripheral vascular disease ( 245 ). Postmethionine nhẹ homocysteinemia có mặt ở 21% bệnh nhân trẻ bị bệnh động mạch vành, 24% bệnh nhân bị bệnh mạch máu não, và 32% bệnh nhân bị bệnh mạch máu ngoại biên ( 245 ).

homocysteinemia nhẹ có thể được giảm ngay lập tức và lâu dài bởi nuốt một sự kết hợp của các vitamin B-6, acid folic, và betain ( 244 , 245 ) hoặc betain (1,5-6 g / d) một mình ( 57 , 189 , 198 , 201 , 246 ). Betaine, nhưng không folic acid, có tác dụng ngăn chặn sự gia tăng nồng độ homocysteine postmethionine ( 198 , 201 , 244 , 247 , 248 ). Betaine phụ thuộc vào remethylation xảy ra chủ yếu ở gan và thận, trong khi đó phụ thuộc vào remethylation folate xảy ra ở hầu hết các tế bào. nồng độ homocysteine huyết thanh có thể được đại diện bởi các nguồn cung cấp extrahepatic vào gan qua remethylation folate và sản lượng gan qua remethylation betain ( 198 ). Do đó, kết hợp uống axit folic và betaine có thể là phương pháp hiệu quả nhất làm giảm homocysteine.

Di truyền các biến thể của các enzym chuyển hóa homocysteine ảnh hưởng đến nguy cơ homocysteinemia và do đó các bệnh tim mạch và rối loạn thông thường khác ( 249 ). MTHFR nhẹ thiếu hụt, do tính đa hình gây ra bởi sự thay thế một (677C → T) trong gen mà thay đổi một dư lượng alanine để valine, là phổ biến (≈ 10-15% homozygosity ở Bắc Mỹ) ( 250 , 251 ) Các MTHFR kết quả là thermolabile, đã giảm hoạt động của enzym, và dẫn đến homocysteinemia trung bình nếu folate tình trạng là thấp. MTHFR-chuột bị tổn thương với homocysteinemia nhạy cảm hơn với những thay đổi về lượng betain hơn là động vật hoang dại In mice with mild or severe homocysteinemia due to heterozygosity or homozygosity for a disruption in the MTHFR gene, betaine supplementation decreases homocysteine, restores liver betaine and phosphocholine pools, and prevents severe steatosis ( 199 ). Ở những con chuột có hoặc nặng homocysteinemia nhẹ do heterozygosity hoặc homozygosity cho một sự gián đoạn trong gen MTHFR, betain, bổ sung giảm homocysteine, phục hồi gan betain và phosphocholine hồ bơi, và ngăn ngừa gan nhiễm mỡ nặng ( 199 ). Ở những con chuột với homocysteinemia vừa gây ra bởi một sự gián đoạn trong gen CBS, betain, bổ sung giảm homocysteine, tăng betain gan, và tăng hoạt động BHMT trong cả hai và hoang dã các loại dị hợp tử ( 252 ). Có một số đột biến của gen BHMT ( 253 ), và các kiểu gen QQ, một sự thay thế của glutamine cho arginine (Q239R), là một biến thể phổ biến của BHMT ở người xảy ra tại ≈ 10-17% dân số trưởng thành ( 253 , 254 ). Các kiểu gen QQ được kết hợp với giảm nguy cơ khuyết tật ống thần kinh ( 254 ) và bệnh động mạch vành ( 249 ).

Y sạn thận

BHMT rất nhiều trong thận lợn và linh trưởng, xảy ra ở nồng độ rất thấp trong thận chuột, và là bản chất vắng mặt từ các cơ quan quan trọng khác của động vật dạ dày đơn ( 91 ). BHMT hoạt động trong các con heo, con người, và thận chuột được thể hiện chỉ ở ống gần của vỏ não và vắng mặt từ tủy này. Nhuộm các mẫu mô miễn dịch cho thấy biểu hiện cytosolic trong thận của cả hai và gan Sự tập trung của betaine trong gan và thận được điều khiển bởi tonicity trong cơ thể thông qua quy định của BHMT ( 255 ). Trong điều kiện trương, thận và gan BHMT giảm để bảo tồn betain để được sử dụng như là một osmoprotectant. Ngược lại, trong điều kiện Hypotonic, BHMT tăng giảm betain và giúp duy trì tế bào turgor tối ưu. Betaine tích tụ trong các tế bào tủy thận trương tiếp xúc với stress phụ thuộc vào hoạt động 2 cyclooxygenase ( 110 ). etaine bảo vệ chống lại các hiệu ứng độc thận của carbon tetrachloride ở chuột ( 256 ), và ở những bệnh nhân có bệnh thận dùng acid folic, betaine có thể làm giảm nồng độ homocysteine postmethionine nhưng không ăn chay homocysteine ( 248 , 257 - 259 ).

Methyl hóa ADN

DNA không đầy đủ methyl hóa có thể dẫn đến sự mất ổn định di truyền, lão hóa và ung thư ( 260 - 262 ), và tối ưu "chế độ ăn methyl hóa", bao gồm betain, đã được đề xuất để phòng ngừa và điều trị của một loạt các điều kiện ( 263 ). Tổng hợp các choline để đóng gói và bài tiết chất béo từ gan tiêu thụ các nhóm methyl và xuất hiện để cạnh tranh với các phản ứng methyl hóa khác.Như vậy, một chế độ ăn giàu chất béo làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu methyl, và cao hơn tỷ lệ của đồng yếu tố và nguồn nhóm methyl so với lượng calo có thể giải thích tuổi thọ kéo dài quan sát thấy trong các thí nghiệm hạn chế calo ( 260 ).

Biểu sinh là nghiên cứu về tính trạng di truyền không liên quan đến một thay đổi trong trình tự gen (tức là kiểu hình khác nhau của các kiểu gen giống hệt nhau). Yellow agouti mice have an epigenetic variation in coat color—more yellow is associated with altered metabolism, greater obesity, diabetes, cancer, and earlier mortality. chuột vàng agouti có một sự biến đổi biểu sinh trong màu áo vàng hơn, được kết hợp với sự trao đổi chất bị thay đổi, béo phì lớn hơn, tiểu đường, ung thư, và tỷ lệ tử vong trước đó. Trong biểu sinh học, methyl hóa là sự bổ sung của các nhóm methyl vào cytosine trong ADN để tạo thành 5-methylcytosine bằng cách sử dụng các enzyme DNA methyltransferase. Năm mẹ con chuột vàng agouti, bổ sung methyl, bao gồm cả bổ sung với betain, trước và trong khi mang thai methyl hóa ADN tăng (5-methylcytosine) và thay đổi kiểu hình của con cái giống hệt của mình theo hướng lành mạnh, sống lâu hơn,,, tức là ít lông màu vàng ( 264 - 267 ). Những nghiên cứu này giúp giải tại sao một quần thể động vật biến đổi gen hoặc môi trường rất ít vẫn sẽ mang lại một lan rộng đáng kể trong tuổi thọ và bệnh tật. biến đổi biểu sinh có ảnh hưởng đến sức khỏe người lớn và tuổi thọ có thể được thiết lập trong quá trình phát triển phôi thai và thai nhi không đầy đủ methyl hóa liên quan đến gen và Retrovirus nội sinh.

HOẠT ĐỘNG

Một nghiên cứu bệnh bại liệt của con người ( 268 ) phát hiện ra rằng uống một-guanidinoacetate kết hợp betain dẫn đến một cảm giác được cải thiện tốt được ít mệt mỏi hơn, và lớn hơn sức mạnh tổng hợp và bền bỉ trong phục hồi. Bất cứ khi nào có động cơ hoạt động đơn vị, quyền lực vẫn còn sót lại trong cơ một, betain-guanidinoacetate dẫn đến một sự gia tăng đáng kể. Một bằng sáng chế đã được cấp ( 269 ) cho kết hợp này, hoặc betain một mình, để điều trị các mô cơ bắp yếu, bệnh. Một nghiên cứu của các đối tượng bị bệnh thần kinh vận động ( 270 ) thấy rằng, guanidinoacetate betain đã không truyền đạt bất kỳ lợi ích khách quan. Tuy nhiên, một số bệnh nhân bắt nguồn một lợi ích chút chủ quan, do đó, tác giả kết luận rằng nó có thể hữu ích cho việc hỗ trợ tâm lý tạm thời. Betaine có thể cải thiện hiệu suất thể thao, bởi vì ngoài của mình cho một điện thay thế chất lỏng-nước giải khát chất bột kết quả trong thời gian trung bình cải thiện để chạy nước rút kiệt sức và bằng chứng về sự trao đổi chất kỵ khí và hiếu khí tăng cường ( 57 , 271 ). ù nước với betain cũng thay đổi kết quả phân tích huyết tương và giảm LDL và homocysteine.

KẾT LUẬN

Betaine là một chất dinh dưỡng của con người quan trọng thu được từ chế độ ăn uống từ nhiều loại thức ăn. Nó được hấp thu nhanh và sử dụng như là một osmolyte và nguồn gốc của các nhóm methyl và do đó giúp duy trì gan, tim, và sức khỏe thận. Betaine có thể làm giảm nồng độ homocysteine cao có liên quan với hyperhomocystinuria nhẹ hoặc nặng thông qua các chu kỳ methionine và có thể đóng một vai trò trong biểu sinh học và hiệu quả hoạt động thể thao.

ƠN

Tôi cảm ơn Tony Barak và James Finkelstein của Bộ Cựu Chiến binh và Kirsti Tiihonen của Danisco đổi mới cho những đóng góp hữu ích vào văn bản.

http://translate.googleusercontent.com/tra...FMkyBIjYHlw#R91
Go to the top of the page
 
+Quote Post
KinhThanh
bài Jan 28 2011, 07:26 AM
Bài viết #35


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Cobalt là gì?
Cobalt không được sử dụng bởi cơ thể. Nó phải được ngấm vào vitamin B12 để tạo thành một trong những hợp chất.
Vai trò của cobalt?
Vai trò không tách khỏi vai trò của B12 cùng với vai trò của các chuyển hóa khác nhau trong quá trình tổng hợp acid nucleic giống như ADN và trong chuyển hóa của acid amin có lưu huỳnh.
Nguồn thức ăn nào cung cấp cobalt?
Một vài thực phẩm như rau xanh và bia chứa cobalt, nhưng chúng không sử dụng được bởi sinh hóa của cơ thể. Chỉ vitamin B12, từ thực phẩm có nguồn gốc động vật cung cấp mới mang lại cobalt có thể đồng hóa. Một phần ít đến từ quá trình tổng hợp của vitamin B12 bởi vi sinh vật.
Nhu cầu hàng ngày về cobalt là bao nhiêu?
Nhu cầu tương ứng với nhu cầu của vitamin B12, được ước tính là 3mg/ngày. Nhu cầu được tăng ở người già, người hấp thu ít B12.
Thiếu cobalt biểu hiện triệu chứng thế nào?
Mệt, giảm khả năng trí tuệ, thiếu máu. Thiếu trầm trọng dẫn đến những rối loạn tâm thần, có thể chữa lành từ lúc đầu nhưng không thể khi về sau.
Những ai dễ bị thiếu cobalt?
Thiếu cobalt cũng tương ứng với thiếu vitamin B12, xảy ra ở những người ăn chay (vitamin B12 không có ở dạng có thể đồng hóa trong các sản phẩm thực vật), những người già và những người bị viêm dạ dày.

VITAMIN B12 HAY COBALAMIN

Vitamine B12 là gì ?
Vitamine B12 là một phân tử lớn chứa ở trung tâm một hạt nhân cobalt. Trong cơ thể, nó tồn tại dưới dạng bốn dẫn xuất mà người ta gọi là cobalamin và hoạt động như các yếu tố enzyme. B12 rất nhạy cảm với ánh sáng, và tương đối ổn định với nhiệt độ (cho đến 1200C), bền vững với ôxy hóa.
B12 ít tan trong rượu và dịch hữu cơ, nhưng dễ hòa tan trong nước. B12 sẽ mất hàm lượng trong thức ăn khi thức ăn được rửa và nấu trong nước.
Dự trữ toàn bộ của tổ chức về vitamine B12 vào khoảng 3 đến 4mg, chủ yếu được chứa ở trong gan. Mức độ dự trữ này đủ bảo đảm lượng vitamine B12 cần thiết trong 5 năm.
Vai trò của Vitamine B12 ?
Vitamine B12 là đồng yếu tố của hai loại phản ứng men thiết yếu :
Đồng phân hóa (đồng phân là những phức hợp hóa học có cùng hạt nhân nhưng có sẵn ở dạng soi gương).
Vận chuyển nhóm methyl (transmethyl hóa).
Hai loại phản ứng này có những vai trò quan trọng liên quan đến những vấn đề sau.
Tạo máu : Trong tủy xương, vitamine B12 can dự vào cùng một lúc quá trình trưởng thành và sự nhân lên của hồng cầu. Trường hợp thiếu vitamine B12, suy nhiều dòng tế bào dẫn đến tăng kích thước của các tế bào được sinh ra. Điều này làm cho hồng cầu khổng lồ, được gọi là tế bào lớn.
Tính toàn vẹn của hệ thần kinh : Thiếu vitamine B12 đưa đến thoái biến dây thần kinh ngoại biên, tủy sống và đôi khi não. Điều này bắt đầu bởi tổn thương vỏ bảo vệ của các đầu tận cùng dây thần kinh, myéline.
Tính hiệu quả của hệ miễn dịch, và đặc biệt tiết ra kháng thể.
Quá trình nhân đôi của ADN trong tế bào.
Tổng hợp methionin.
Nhìn chung, vitamine B12 rất cần thiết cho quá trình nhân lên của tế bào.
Thiếu B12 ảnh hưởng một cách đặc biệt đến tất cả các mô mà trong đó quá trình nhân đôi xảy ra nhanh chẳng hạn ở máu, niêm mạc ruột non, nội mạc tử cung.
Vitamine B12 tham gia vào chức năng của hệ thống thần kinh (trí nhớ, khả năng học…) và quá trình phát triển hài hòa ở trẻ em. Nó còn có tác dụng chống mệt mỏi và kích thích.
Thức ăn nào cung cấp Vitamine B12?
Nguồn cung cấp chủ yếu là động vật, đặc biệt ở gan, bò, heo, cá, thịt, thức ăn biển, trứng.
Nguồn cung cấp tự nhiên của vitamine B12
Gan bò
Gan gà

Trứng
Fromage, heo, gà, cừu
Sữa mẹ
Sữa bò
Nhu cầu hàng ngày về Vitamine B12 là bao nhiêu ?
Tương ứng với số lượng cần thiết để bù lại B12 mất đi hàng ngày, trung bình 2 đến 5mg/ngày đối với người thanh niên hay trưởng thành. Thực phẩm, nếu không phải là thực vật, thì bảo đảm đủ nhu cầu cho cơ thể.
Lượng vitamine B12 được khuyên cung cấp
Trẻ còn bú : 1mg/ngày
Trẻ từ 1-12 tuổi : 2mg/ngày
Thanh niên từ 13 đến 19 tuổi: 3 mg/ngày
Người trưởng thành: 3mg/ngày
Phụ nữ có thai hay cho con bú: 4mg/ngày = 4.000mcg ( μg )
1 - 6 mcg/ ngay
Thiếu Vitamine B12 biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Những triệu chứng lâm sàng xuất hiện từ từ và kín đáo trong nhiều tuần, đôi khi trong nhiều tháng. Chúng có biểu hiện đầu tiên là mệt mỏi tăng dần, chán ăn, gầy sút rồi sau đó xuất hiện thiếu máu, tổn thương hệ thần kinh, da và niêm mạc.
- Thiếu máu
- Tổn thương hệ thần kinh
- Tổn thương da và niêm mạc
- Những triệu chứng máu : Liên quan đến tất cả những dòng tế bào. Đầu tiên, tăng thể tích hồng cầu, rồi thiếu máu, cuối cùng tổn thương bạch cầu.
Những ai dễ bị thiếu Vitamine B12 ?
Người ăn chay.
Người nghiện rượu mãn tính, thiếu tất cả các vitamine nhóm B.
Người lớn tuổi.
Người bị bệnh đường tiêu hóa : Viêm dạ dày bởi thiếu tiết acid (thường gặp ở người già), cắt bỏ dạ dày, túi thừa hay có những khoang bất thường ở ruột, bệnh Cohn.
Những người được điều trị lâu bằng các thuốc tác động đến chuyển hóa vitamine B12 như Metformin (glucophage, ghicinan) một thuốc điều trị tiểu đường.
Thuốc chống loét dạ dày như: cimetidine hay ranitidine.
Colchicin được dùng để chữa bệnh gout.
Neomycin.
Thuốc ngừa thai làm giảm lượng vitamine B12.
Trường hợp nào nên dùng Vitamine B12?
Chỉ định và cách thức dùng tùy theo triệu chứng và nguyên nhân.
Thiếu cung cấp được điều chỉnh dễ dàng bằng cách bổ sung bằng đường ăn uống.
Thiếu bởi bệnh của chuyển hóa, cũng có thể chữa lành bằng đường ăn uống.
Thiếu do kém hấp thu, đòi hỏi phải dùng đường tiêm.
Chỉ định dùng B12 rất nhiều, kết quả từ các quan sát lâm sàng, người ta sử dụng thường xuyên vitamine B12, đơn độc hay kết hợp, với B1 và B6.
Để hỗ trợ chống đau do bệnh thần kinh, đau thần kinh tọa, đau thần kinh cổ, cánh tay, bệnh thần kinh gây đau, viêm dây thần kinh thị giác.
Để hoạt hóa chuyển hóa chung, chống mệt mỏi (liều cao).
Bệnh xơ cứng rải rác.
Khử độc cyanure.
Thuốc nhỏ mắt trong viêm kế mạc là vết thương giác mạc.
Nhưng nhu cầu sử dụng thường gặp là bổ sung thêm để ngừa tính biến đổi của hoạt động trí tuệ ở những người lớn tuổi, giống như B9.
Dùng Vitamine B12 thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không?
Ở người, không ngộ độc do quá liều. Tuy nhiên, với người trưởng thành đã nhận kéo dài liều cao vitamine B12, có nghiên cứu cho rằng có sự xuất hiện kháng thể chống B12. Cũng phải tính đến rằng ở liều cao có nguy cơ phát triển u ác tính, vì hoạt động của vitamine lên quá trình phát triển của u.
Cuối cùng, có một vài phản ứng miễn dịch dị ứng (biểu hiện da) sau khi tiêm như: ngứa, nổi mề đay, đỏ da, trứng cá, nước tiểu có màu đỏ, đau chỗ tiêm. Một vài người cũng dị ứng với vitamine B12 bằng đường tiêu hóa.
----------------------------------

Vitamin A là gì ?
Không tan trong nước, vitamin A tan trong mỡ, ether, chloroform và aceton. Nó ổn định với nhiệt, nhưng bị giáng hóa rất nhanh bởi acid và rất nhạy cảm với ôxy hóa, không khí, ánh sáng.
Vai trò của Vitamin A ?
Vitamin A giữ những vai trò cơ bản trong thị giác, khả năng biệt hóa của biểu mô, cùng quá trình phát triển và sinh sản.
Vitamin A và thị giác :
Vitamin A đóng vai trò chủ đạo trong mức độ và tầm nhìn của đôi mắt.
Thích nghi với bóng tối là một hiện tượng sinh lý – hóa học giúp giữ lại, một dẫn xuất của retinol huyết tương; thodopsin trong các tế bào que của võng mạc. Ánh sáng yếu sẽ làm mất thành phần của thodopsin, điều này khởi động cho một luồng thần kinh.
Những tế bào trên bề mặt của mắt cũng lệ thuộc vào vitamin A, vitamin A cũng tham dự vào quá trình tổng hợp nhuộm võng mạc (một sắc tố của mắt). Cũng giống như vậy, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, carotenoid có khả năng (với vitamin C) làm chậm xuất hiện đục thủy tinh thể, một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mù ở người già.
Vitamin A và biểu mô
Vitamin A tham dự vào sự cân bằng và đổi mới biểu mô. Vai trò này được xác định bởi tác dụng của retinoid (đồng chất hóa học của vitamin A) giúp liền sẹo và chữa lành các bệnh da liễu. Đặc biệt trong rối loạn trầm trọng quá trình ngừng hóa hay chuyển dạng bệnh lý của lớp thượng bì (vảy…nến….)
Cuối cùng, vitamin A thực hiện hoạt động điều hòa trên tuyến bã nhờn và tuyến mồ hôi.
Vitamin A và ung thư
Nhiều nghiên cứu đã đạt đến sự thoái lui của bệnh bạch sản, tiền ung thư của miệng bởi bêta caroten hay acid retinoic (sản phẩm cuối cùng của chuyển hóa vitamin A).
Một đội ngũ ở bệnh viện Saint-Louis đã sử dụng thành công vitamin A để chống lại một vài bệnh ung thư máu. Nhưng không may các tế bào ung thư dường như biết được cách để thoát khỏi hoạt động của nó sau vài tháng.
Sở dĩ bêta-caroten xuất hiện như một tác nhân ngăn ngừa và chống lại ung thư là nhờ vào những đặc tính chống ôxy hóa cùng các dẫn xuất của vitamin A, nó xuất hiện như các tác nhân làm biệt hóa trở lại đồng thời tạo khả năng chuyển các tế bào tiền ung thư thành tế bào bình thường. Điều này nhờ tác dụng trực tiếp của chúng trên gen.
Carotenoid và tính miễn dịch
Vitamin A và bêta-caroten cũng có những đặc tính kích thích miễn dịch độc lập (vitamin A, trên mức độ đáp ứng bởi kháng thể, bêta-caroten trên đáp ứng bởi tế bào lymphoT4).
Vitamin A được sử dụng trong điều trị, bêta-caroten trong sida. Những năm vừa qua, người ta xác định được những đặc tính kích thích miễn dịch của các carotenoic khác trong cà chua : Licopen.
Carotenoid và sự lão hóa :
Bêta-caroten cùng với vitamin E và một số Carotenoid khác như licopen, là các chất có khả năng bảo vệ lipid. Nói một cách khác nó bảo vệ chúng ta thoát khỏi lão hóa và một số bệnh gọi là bệnh “thoái hóa” chẳng hạn : ung thư, bệnh tim mạch, thoái hóa não…
Cuối cùng, bêta-caroten làm chậm lại tốc độ tăng nhanh của quá trình thoái hóa trong một vài tình huống đặc biệt như : tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời, đái tháo đường, nghiện thuốc lá.
Carotenoid đóng vai trò quan trọng, nó cùng các chất chống ôxy hóa khác bảo vệ, chống lại hư hỏng phân tử và tế bào do các gốc tự do được tích lũy theo tuổi tác.
Vitamin A và quá trình tăng trưởng :
Vitamin A giữ vai trò tăng trưởng và nhân lên của tế bào nên nó cũng rất cần thiết cho quá trình phát triển, đặc biệt là cần cho sự phát triển của phôi thai, trẻ em và thanh niên.

Thức ăn nào cung cấp Vitamin A ?
Vitamin A có trong tự nhiên, trong các thực phẩm bắt nguồn từ động vật : gan, dầu cá, cá, bơ fromage.
Bêta-caroten và những carotenoid khác được cung cấp từ các thức ăn có nguồn gốc thực vật, và được tìm thấy rau xanh, trái cây tươi, có màu đỏ và vàng hay lá xanh sẫm. Chẳng hạn : càrốt, củ có màu, cà chua, su, sữa. Người ta cũng tìm thấy nó trong cá hồi, tôm, gà, lòng đỏ trứng.
Những hàm lượng của bảng sau đây được thể hiện bằng mức độ tương đương retinol đối với các thực phẩm có nguồn gốc động vật, trong đó retinol có mặt ở dạng tự nhiên.
Đối với thức ăn có nguồn gốc thực vật chứa casotenoid (có khả năng chuyển thành vitamin A trong tổ chức) hàm lượng được thực hiện bằng microgram bêta-caroten (6mg bêta-caroten = IE.R)
Nguồn cung cấp tự nhiên của vitamin A
Gan động vật
Dầu gan cá
Trứng tươi

Fromage Camembert
Sữa bò
Cá trích
Chình tươi
Nguồn cung cấp tự nhiên của Bêta-caroten
Đào vàng
Cam
Cà rốt
Bắp
Khoai tây

Nhu cầu hàng ngày về Vitamin A là bao nhiêu ?
Như tất cả vitamin khác, vitamin A có những mặt cần thiết :
Cung cấp tối thiểu để tránh thiếu vitamin.
Cung cấp theo lời được khuyên nhằm cho phép bảo đảm cân bằng sinh lý và làm cạn nguồn dự trữ.
Giá trị tối ưu giúp cơ thể hoạt động tối đa khả năng của nó, bao gồm hệ thống đề kháng và sửa chữa cơ thể, tức là góp phần vào phòng ngừa bệnh và chậm quá trình lão hóa. Giá trị liên quan không chỉ với vitamin A mà với các carotenoid.
Lượng vitamin A được khuyên cung cấp

Trẻ còn bú: 350-400 mg/ngày
Trẻ từ 1 đến 3 tuổi: 350-400 mg/ngày
Trẻ từ 4 đến 9 tuổi :500-800 mg/ngày
Trẻ 10 đến 12 tuổi :700-900 mg/ngày
Thanh niên 13 đến 19 tuổi nam :900-1000 mg/ngày
Thanh niên 13 đến 19 tuổi nữ: 800-1000 mg/ngày
Người lớn nam: 800-900 mg/ngày
Người lớn nữ :800-900 mg/ngày
Phụ nữ có thai: 900-1000 mg/ngày
Phụ nữ cho con bú :1300-1400 mg/ngày

- Nam từ 11 tuổi trở lên: 3000 UI sinh tố A hoặc 10.000 UI beta caroten.
- Nữ từ 11 tuổi trở lên: 2500 UI sinh tố A hoặc 8000 UI beta caroten
- Phụ nữ có thai: 2500 UI sinh tố A hoặc 8000 uI beta caroten.
- Phụ nữ cho con bú: 4000 UI sinh tố A hoặc 12.000 UI beta caroten.

Các carotenoid khác, giống như licopen, ngày nay xuất hiện ít quan trọng hơn bêta-caroten.
Thiếu Vitamin A biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Tổn thương mắt :
Thiếu vitamin A dẫn đến thiếu rodopsin, sắc tố của giác mạc gây ra sự thích nghi với bóng tối biến đổi thị lực vào buổi tối là một trong những dấu hiệu đầu tiên của thiếu vitamin A, nhưng có thể khó để biết được ở trẻ em, triệu chứng là quáng gà (tức là nhìn không rõ khi trời chiều tối).Đối với giác mạc và kết mạc, người ta thấy có sự thay đổi các tế bào bề mặt, khô mắt. Bệnh này có thể gây đến mù không chữa được, hiện nay còn có hàng triệu người trên thế giới mắc phải.

Những biến đổi về da :
Thiếu vitamin A đưa đến teo và khô các tuyến bã và tuyến mồ hôi, với sừng hóa. Những biến đổi này ảnh hưởng đến:
Da, đặc biệt ở mặt ngoài đùi và cẳng chân.
Niêm mạc, điều này giải thích tính nhạy cảm được tăng với nhiễm trùng của phế quản và phổi, ngoài vấn đề vitamin A kích thích sự tổng hợp kháng thể.
Thay đổi trong quá trình phát triển :
Vai trò của vitamin A trong quá trình nhân lên và phát triển của tế bào giải thích rằng : Thiếu vitamin dẫn đến chậm phát triển (về chiều cao và cân nặng ).
Thiếu vitamin A vẫn còn xảy ra trong dân chúng, nhất là trẻ em nhỏ hơn 6 tuổi, đi kèm với suy dinh dưỡng. Nó có những hậu quả lâm sàng trầm trọng khi đi kèm với thiếu vitamin E và thiếu kẽm.
Những ai dễ bị thiếu Vitamin A ?
Ở các nước thiếu dinh dưỡng, những phương pháp phòng ngừa đơn giản có thể chống được bệnh khô mắt mỗi năm.
Trong các nước công nghiệp hóa, người ta gặp thiếu vitamin A ở những tầng lớp xã hội không thuận lợi hoặc những nhóm người có chế độ ăn đặc biệt.
Cũng giống như vậy, ở những người già sống trong điều kiện khó khăn, tất cả những rối loạn mà cơ chế hấp thu bị biến đổi có thể làm giảm khả năng dự trữ vitamin A ở gan có khi đến ngưỡng thiếu khả năng dự trữ vitamin A của tổ chức có thể giảm do một số bệnh :
Bệnh tổn thương gan, gan dự trữ 90% vitamin A, các bệnh đó là xơ gan, viêm gan mãn.
Bệnh đường tiêu hóa mãn tính (đi chảy), nhiễm ký sinh trùng làm giảm sự hấp thu của ruột.
Mucovisidose, bệnh di truyền với rối loạn hấp thu mỡ, cùng tất cả các bệnh rối loạn hấp thu mỡ như hẹp đường mật.
Điều trị kéo dài bằng corticoid và một số thuốc khác.
Dùng thường xuyên dầu parafin để tẩy.
Tiêu thụ trái cây và rau không đủ trong các các quần thể dân chúng ở các nước công nghiệp hóa, cũng như nhu cầu carotenoid quá ít.
Trường hợp nào nên dùng Vitamin A ?
Kê đơn được dựa trên mức độ thiếu cung cấp do suy dinh dưỡng hay thói quen thực phẩm không đúng. Tại các nước có suy dinh dưỡng thì nguy cơ quá liều không có. Ngược lại, vitamin A còn được đưa vào với liều cao bằng đường uống, 6 tháng một lần, vì lý do mức độ hấp thu và dự trữ cao vitamin A nguy cơ độc cho gan thấp.
Khi cơ thể hấp thu hoặc dự trữ vitamin A gan bị biến đổi, liều được cung cấp bởi đường ngoài tiêu hóa phải dựa trên nhu cầu hằng ngày.
Vitamin A từ lâu được đề nghị để điều trị các bệnh về da có rối loạn quá trình sừng hóa : Chẳng hạn : vảy nến, mụn trứng cá. Ngày nay, người ta dùng các retinoid tổng hợp, tuy nhiên, nó có thể độc hơn vitamin A, và tốt hơn nếu chỉ sử dụng điều trị bên ngoài, kết hợp với bêta-caroten và các chất chống ôxy hóa khác bằng đường uống.
Vitamin A được kê bằng cách dùng tại chỗ, dưới dạng nhỏ mắt lúc bị tổn thương giác mạc, dưới dạng crem bôi da để điều trị các chỗ tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời, vết thương, bỏng bề mặt, nứt nẻ da.
Vitamin A còn được dùng liều cao trong một vài phương pháp điều trị chống ung thư.
Nguy cơ tăng vitamin có thể giảm bởi dùng kèm vitamin E có nguồn gốc tự nhiên. Nó cũng được dùng để giảm nguy cơ biến chứng và tử vong do sởi ở trẻ em.
Nhưng ở người lành, không có giá trị điều trị nào khi dùng vitamin A. Đặc biệt, không được dùng tự tiện cho trẻ em và phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ.
Chú ý : Vitamin A có hàm lượng thay đổi trong nhiều ngành dược, thực phẩm, chế độ ăn, mỹ phẩm.
Dùng Vitamin A thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ?

Phần lớn vitamin A được hấp thu hàng ngày và được dự trữ trong gan. Khả năng dự trữ của cơ quan này rất cao, vì người ta có thể lấy ra lượng vitamin A 200mg trong 1g gan : tức là 1 gram gan có vitamin A cao hơn 3 lần nhu cầu hằng ngày của người lớn.
Vượt quá nồng độ này, vitamin A trở nên độc. Những ngưỡng độc không rõ nét. Có những nguy cơ tăng vitamin khi sự hấp thu hàng ngày đạt tới từ 20 đến 50 lần liều được đề nghị, và tai nạn xảy đến sau nhiều tháng, đôi khi nhiều năm. Bệnh của gan dễ làm gan tổn thương với độc tính của vitamin A.
Quá liều cấp gây ra tăng áp lực nội soi dẫn đến chóng mặt, nôn, và buồn nôn, thóp phồng ở trẻ em còn bú, đau đầu vùng chẩm ở người lớn, bong da và niêm mạc.
Quá liều mãn tính được thể hiện âm ỉ lúc đầu với những rối loạn da (bong vảy, khô, ngứa, rụng lông), đau khớp và cốt hóa dây chằng, đóng sớm sụn liên hợp, rối loạn thần kinh (dễ kích thích, mệt ở trẻ em), bị bệnh gan có thể dẫn suy gan.
Bêta-caroten hoàn toàn không độc, để tránh nguy cơ tăng vitamin A.
Quá liều carotenoid chỉ có thể gây ra màu vàng ở da.
Hai nghiên cứu của Pames năm 1994 và 1995, cho thấy một sự tăng nhẹ tần số của ung thư phổi ở người hút thuốc lá cần được cung cấp, thêm bêta-caroten. Ngoài việc bỏ thuốc lá, người đang hút thuốc và người hút thuốc trước đây không được dùng bêta-caroten có thể trở thành chất tiền ôxy hóa trong một số trường hợp.
Người ta có thể thêm vào nguy cơ liên quan đến việc dùng vitamin A, các nguy cơ của retinoid, những chất giống về mặt hóa học, đặc biệt để điều trị các bất thường về quá trình sừng hóa và sản xuất chất bã. Nhưng phải biết rằng, hoạt động của chúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi trên các mô bị tổn thương, đi kèm các tác dụng phụ trên mô lành, đặc biệt là khô da và niêm mạc.
Đối với các phụ nữ được điều trị bằng retinoid nếu có thai thì chống chỉ định tuyệt đối. Khi đó ngoài nguy cơ bị sẩy thai tự nhiên còn có nguy hiểm về biến dạng bào thai (Không chỉ cấm dùng retinoid trong lúc có thai, mà muốn có thai phải ngừng thuốc trước một thời gian).
---------------------------------------------

Retinol

Retinol, dạng động vật của vitamin A, có màu vàng, hòa tan trong dầu. Vitamin này cần thiết cho thị lực và phát triển xương.

xem thêm thông tin từ web : http://vi.wikipedia.org/wiki/Vitamin_A

-------------------------------------------------
Beta- caroten
Công trình nghiên cứu đã được đăng trên Tạp chí Archives of Internal Medicine cho thấy một tác dụng bảo vệ chống lại sự suy giảm liên quan đến nhận thức ở những người nam giới khỏe mạnh, những người đã sử dụng beta caroten trong khoảng 18 năm, nhưng tác dụng này không thấy có ở những người mới sử dụng chất bổ sung này trong trung bình khoảng một năm.

Các phát hiện cho thấy beta caroten có thể là một vũ khí quan trọng trong việc né tránh được các vấn đề về trí nhớ mà có thể là điềm báo của căn bệnh Alzheimer’s và các chứng bệnh mất trí nhớ khác, theo các nhà nghiên cứu cho biết.

“Đây là thử nghiệm đầu tiên phát hiện thấy một cách thức có thể giúp ích cho trí nhớ của bạn nếu bạn mạnh khỏe. Chúng tôi cho rằng, phương pháp này còn có thể cho chúng ta biết rằng, chúng ta có thể điều chỉnh, làm cho trí nhớ của chúng ta cải thiện lên hay tồi tệ đi”, Francine Grodstein thuộc bệnh viện Brigham and Women's Hospital tại Boston, người lãnh đạo công trình nghiên cứu phát biểu. Tuy nhiên Grodstein cho biết, việc sử dụng beta caroten có thể ảnh hưởng đến một số người như làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi ở những người hút thuốc lá.

Beta caroten là một trong những chất chống oxy hóa, tức là các hợp chất có thể ngăn ngừa được một số tổn hại từ các phân tử không bền vững được gọi là các gốc tự do, chúng được tạo nên khi cơ thể chuyển hóa thức ăn thành năng lượng. Một số chuyên gia cho rằng, các chất chống ôxy hóa có thể hạ thấp nguy cơ mắc bệnh ung thư, bệnh tim mạch và các chứng đau ốm khác.

“Beta caroten là một loại vitamin chống ôxy hóa. Lý do khiến chúng tôi cho rằng nó có thể giúp ích cho bộ não của bạn là bởi vì có nhiều bằng chứng cho thấy sự tổn hại oxy hóa gây ảnh hưởng đến bộ não của bạn. Và đó có thể là một trong những yếu tố ban đầu dẫn đến các vấn đề về trí nhớ”, Grodstein nói. Trong công trình nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã xem xét tác dụng của beta caroten đối với khả năng liên quan đến nhận thức ở hai nhóm nam giới. Một nhóm sử dụng dài hạn chất bổ sung này trong thời hạn trung bình là 18 năm. Nhóm kia sử dụng ngắn hạn với thời hạn trung bình là một năm, lâu nhất là ba năm.

Những người nam giới thuộc nhóm sử dụng beta caroten lâu dài được ghi nhận đạt được điểm cao hơn trong nhiều xét nghiệm liên quan đến nhận thức, đặc biệt là xét nghiệm về trí nhớ bằng lời. Trong khi những người thuộc nhóm sử dụng ngắn hạn không có đạt được điểm cao hơn người bình thường trong các xét nghiệm liên quan đến nhận thức.

Một công trình nghiên cứu khác cũng đã tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa chế độ ăn và chứng mất trí. Các nhà nghiên cứu Pháp viết trong Tạp chí Neurology cho biết họ đã theo dõi chế độ ăn của 8.085 tình nguyện viên nam và nữ ở độ tuổi trên 65. Họ đã tham gia trong vòng bốn năm, trong khoảng thời gian đó 183 người đã phát triển bệnh Alzheimer's và 98 người khác mắc các chứng mất trí khác.

Có thể hạ thấp nguy cơ phát triển chứng mất trí nhớ bằng cách tuân theo các chế độ ăn giàu cá, dầu omega-3, hoa quả và rau.

Nhu cầu hằng ngày về tiền sinh tố A hoặc sinh tố A của mọi người :

- Nam từ 11 tuổi trở lên: 3000 UI sinh tố A hoặc 10.000 UI beta caroten.
- Nữ từ 11 tuổi trở lên: 2500 UI sinh tố A hoặc 8000 UI beta caroten
- Phụ nữ có thai: 2500 UI sinh tố A hoặc 8000 uI beta caroten.
- Phụ nữ cho con bú: 4000 UI sinh tố A hoặc 12.000 UI beta caroten.

------------------------------------
GIẢM TỬ SUẤT KHI MỨC ALPHA-CAROTEN TRONG MÁU CAO
Dược sĩ Lê Văn Nhân

Theo tự điển bách khoa Wikipedia, caroten (còn gọi là carotin) là những hợp chất tổng hợp ở thực vật nhưng không tổng hợp được ở động vật. Caroten là chất màu vàng quan trọng cho quang hợp, tạo ra màu vàng cho củ cà-rốt nên mới có tên caroten. Carotenoid là những chất gần giống caroten.
Trên mặt cấu trúc hóa học, caroten là carotenoid không có nguyên tố oxy. Carotenoid chứa vài nguyên tố oxy gọi là xanthophyll. Phân tử caroten có 40 carbon và 2 đầu là 2 vòng với 9 carbon. Vòng 9 carbon này gọi là vòng β. Phân tử alpha-caroten chỉ có 1 vòng β, đầu kia là vòng ε. Như vậy:
.............
............

Alpha-caroten là thành phần của gia đình carotenoid, và là 1 trong những carotenoid phong phú nhất trong thực đơn lành mạnh. Cơ thể có thể chuyển alpha và beta-caroten thành vitamin A để duy trì da và xương khỏe mạnh, mắt nhìn rõ và hệ miển nhiễm hùng hậu.
Vì cơ thể có thể chuyển alpha-caroten thành vitamin A, alpha-caroten được xem là tiền vitamin A, nhưng chỉ hiệu quả bằng nửa beta-caroten, do cấu trúc hóa học đã trình bày bên trên.
Tuy nhiên, alpha-caroten có thể hiệu quả hơn beta-caroten trong vai trò chất chống oxyt hóa. Chất chống oxyt hóa là enzym chận đứng gốc tự do không cho phá vỡ tế bào hay oxyt hóa tế bào. Những chất chống oxyt hóa hùng mạnh như alpha-caroten lọai gốc tự do phá họai khỏi cơ thể trước khi gốc tự do có thể làm hư hại mô đưa đến bệnh mãn tính như bệnh tim và ung thư.
Ngòai ra, alpha-caroten cũng giúp ngừa ung thư bằng cách kích thích truyền thông giữa các tế bào, một diễn biến mà bây giờ các nhà nghiên cứu tin là cần thiết để bảo đảm tế bào phân chia đúng cách.

Thực phẩm giàu a-caroten mang lại lợi ích gì?
• bảo vệ tế bào cơ thể khỏi bị hư hại bởi tác dụng của gốc tự do
• cung cấp vitamin a cho cơ thể
• tăng cường chức năng miển nhiễm
• giúp hệ sinh sản họat động đúng cách
Alpha-caroten chứa flavonoid, là những chất chống oxyt hóa tạo ra màu sắc và mùi vị cho nhiều lọai rau quả màu vàng da cam và đỏ. Cà-rốt, khoai lang ngọt, bí đỏ squash, bông cải xanh (broccoli), cải làn (kale hay chou vert), dưa cantaloupe, Brussels sprouts (trồng lần đầu tiên tại bruxelle nước Bỉ), kiwi, rau dền Mỹ, xòai, bắp cải xanh (collard green), cải củ (turnip green) là những nguồn thực vật giàu alpha-caroten.
Nhiều flavonoid trong rau trái ở nơi vỏ, do đó không nên vất bỏ vỏ trái cây và rau nếu có thể được. nếu đem hấp sơ vài thức ăn như cà-rốt, rau dền Mỹ có thể giúp cho cơ thể hấp thu dễ dàng hơn.
Nghiên cứu chứng minh alpha-caroten giảm tử suất:
Một nghiên cứu đăng trên mạng Archives of Internel Medicine ngày 22.11.2010 cho biết ăn nhiều rau quả sinh caroten và carotenoid, có thể là chiến lược hữu hiệu giảm nguy cơ chết sớm.
Những nghiên cứu trước đây đã chứng minh tăng tiêu thụ rau quả có tác dụng bảo vệ chống bệnh mãn tính như ung thư, bệnh động mạch vành và bệnh tiểu đường, nhưng không biết chất nào trong thức ăn tạo ra hiệu quả bảo vệ này.
Carotenoid là những chất chống oxyt hóa và được tin tưởng có tính che chở làm giảm thiểu hư hại liên quan đến oxy cho DNA, protein và chất béo, có thể đóng vai trò quan trọng trong những bệnh mãn tính như bệnh tim và ung thư.
Thử nghiệm ngẩu nhiên thuốc bồi dưỡng beta-caroten phát hiện không có tính che chở chống ung thư, bệnh tim mạch hay bệnh tiểu đường type 2, gợi ý có lẽ một chất nào khác tạo ra tác dụng này.
Alpha-caroten chống oxyt hóa có cấu trúc hóa học giống beta-caroten, nhưng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm chứng minh alpha-caroten hiệu quả xấp xỉ gấp 10 lần ức chế tăng sinh tế bào u nguyên bào thần kinh (neuroblastoma) ở người và ức chế sinh u bướu gan.
Những nghiên cứu khác cho thấy các rau cải màu vàng da cam và xanh lục đậm chứa lượng cao alpha-caroten, che chở chống ung thư phổi hơn các lọai rau khác.
Các nhà nghiên cứu quan sát 15 318 người tại Hoa-kỳ tham dự vào nghiên cứu theo dõi sức khỏe và dinh dưỡng, thiết kế để tượng trưng cho dân Mỹ, những người này ít nhất phải 20 tuổi. Nghiên cứu gốc được thực hiện và mẫu huyết thanh được thu thập từ năm 1988 đến năm 1994.
Các nhà nghiên cứu tách rời những người tham dự thành nhóm mức a-caroten trong máu 0-1 μg và nhóm có mức cao hơn, và kết nối những người này với chỉ số tử vong quốc gia (National Death Index) để xác định tình trạng ở thời điểm cuối năm 2006. Mức cao liên quan đến giảm nguy cơ chết sớm:

Mức a -caroten trong máu ------------Nguy cơ tương đối tử vong
2- 3 µg..........................................0.73
4- 5 µg..........................................0.73
6- 8 µg..........................................0.66
9 µg.............................................0.61

Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy liên kết giữa nồng độ a-caroten và nguy cơ chết do bệnh tim mạch, sau khi điều chỉnh với những yếu tố can thiệp như lối sống hàng ngày và những yếu tố nguy cơ, họ thấy liên kết giữa mức a-caroten và tử suất do mọi nguyên nhân là đáng kể.
Ưu điểm của nghiên cứu này là số lớn người tham dự và theo dõi trong một thời gian dài, nhưng vẫn có một số giới hạn chỉ đo mức a-caroten huyết thanh và những bệnh khác có thể gây nguy cơ tử vong như bệnh tiểu đường chẳng hạn.

Dược sĩ Lê-Văn-Nhân
http://www.yduocngaynay.com/5-5LeVNhan_alp..._giamTuSuat.htm

-------------------------------------
Cryptoxanthin- beta

Quả chua phòng bệnh viêm đa khớp

Tăng cường ăn các loại quả chua, tối thiểu là một cốc nước cam mỗi ngày, có thể giảm nguy cơ mắc chứng rối loạn virm sưng, điển hình là bệnh viêm khớp mạn tính tăng dần.

Nguyên nhân là nhờ một thành viên trong nhóm chất carotenoid có tên là beta-cryptoxanthin. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng đã thừa nhận tiềm năng chống oxy hóa của carotenoid.

Các nhà khoa học từ Đại học Manchester và Cambridge (Anh) phân tích dữ liệu từ Cục điều tra Ung thư châu Âu (EPIC) trên 25.000 người. Tất cả được theo dõi trong nhiều năm để phát hiện căn bệnh viêm đa khớp tăng dần - tình trạng viêm màng hoạt dịch ảnh hưởng ít nhất 2 nhóm khớp.

Kết quả cho thấy, ở những bệnh nhân viêm đa khớp, lượng beta-cryptoxanthin trung bình hấp thu mỗi ngày thấp hơn 40% thấp so với người khỏe mạnh. Những người có nhiều beta-cryptoxanthin nhất chỉ có 50% nguy cơ phát triển bệnh so với nhóm ít nhất. Kết quả này không thay đổi kể cả khi tính đến toàn bộ năng lượng hấp thu và thói quen hút thuốc lá.

"Việc tăng cường beta-cryptoxanthin ở mức tối thiểu, tương đương với một cốc nước cam tươi mỗi ngày, sẽ chống lại bệnh viêm đa khớp mạn tính", nhóm tác giả kết luận.

http://vienbang.com.vn/home/detail.php?type=news&iNew=36

----------------------------------------
Lycopene - Phòng chống ung thư và bệnh tim

Lycopene có hai tác dụng dược học, một là chống ung thư và hai là chống xơ vữa động mạch. Cơ chế của tác động này của lycopene được cho là lycopene đã bảo vệ được các phân tử sinh học của tế bào như lipid, lipoprotein, protein và NDA không bị tổn hại do sự tấn công của các gốc tự do.Gốc tự do được hình thành bình thường trong quá trình chuyển hoá, nó cũng có vai trò trợ giúp cơ thể tiêu diệt vi khuẩn hay virus xâm nhập.

Một chất có rất giàu trong trái gấc

Từ lâu nhân dân ta lấy gấc để nhuộm đỏ mầu của xôi, mầu của một số bánh trái đem cúng ông bà tổ tiên nhân ngày Tết hay trong dịp cưới hỏi. Chính mầu đỏ của gấc lại là mầu của một chất có tác dụng ngăn ngừa ung thư và bệnh tim mạch. Chất đó có tên là lycopene.

Lycopene có hai tác dụng dược học, một là chống ung thư và hai là chống xơ vữa động mạch. Cơ chế của tác động này của lycopene được cho là lycopene đã bảo vệ được các phân tử sinh học của tế bào như lipid, lipoprotein, protein và NDA không bị tổn hại do sự tấn công của các gốc tự do.Gốc tự do được hình thành bình thường trong quá trình chuyển hoá, nó cũng có vai trò trợ giúp cơ thể tiêu diệt vi khuẩn hay virus xâm nhập. Tuy nhiên sản sinh nhiều gốc tự do quá hay sản sinh không đúng chỗ thì lại có hại.

Lipid là chất nhậy cảm nhất, đặc biệt những lipid chứa nhiều các axit béo chưa no vì sự phá hoại oxi hoá những axit béo chưa no tiến hành theo một chuỗi phản ứng liên tục, tế bào bao gồm cả màng tế bào, màng nhân và nhân tế bào bị các gốc tự do tấn công hàng triệu “cú” trong một giây. Nhiều tế bào hoạt động như tế bào cơ cũng chịu tổn hại rất lớn vì những tế bào này phụ thuộc vào nguồn năng lượng từ lipid.

Để duy trì sự hoàn chỉnh và hoạt động bình thường, tế bào động vật có cơ chế bảo vệ. Cơ chế này được trang bị bởi hệ thống các chất chống oxy hoá, bao gồm một số vitamin như vitamin E, C, carotene, lycopene…và một số enzyme chứa kim loại (gọi là metalloenzyme).

Lycopene là một chất chống oxy hoá rất mạnh, mạnh hơn 100 lần so với vitamin E. Lycopene có nhiều trong các quả có mầu đỏ như cà chua, ổi ruột đỏ, đu đủ, gấc… Gấc là loại quả có hàm lượng lycopene rất cao, cao hơn trong cà chua tới 70 lần. Ngoài ra trong gấc còn có cả vitamin E và carotene, cũng là những chất chống oxy hoá mạnh.

Những nghiên cứu dịch tễ học ở Mỹ về tác dụng của lycopene trong cà chua đã cho thấy ở vùng nào người dân ăn nhiều cà chua thì tỷ lệ ung thư ống tiêu hoá (đặc biệt dạ dày, trực tràng và kết tràng) thấp hơn những vùng người dân ăn ít cà chua, tỷ lệ người cao tuổi chết về ung thư giảm tới 50%.

Kết quả ấn tượng nhất về tác dụng của lycopene là đối với ung thư tuyến tiền liệt. Trong một nghiên cứu kéo dài 12 năm trên một nhóm đối tượng ăn ít nhất 2 lần nước sốt cà chua mỗi tuần đã thấy nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt giảm 35%, tác dụng này còn mạnh hơn ở những người ung thư đang tiến triển.

Người ta cũng nhận thấy rằng ở những người bị ung thư vú hay ung thư tuyến tiền liệt thì hàm lượng lycopene trong huyết thanh và trong mô thấp hơn ở những người không bị ung thư. Mối quan hệ này không thấy có đối với các chất thuộc nhóm tiền vitamin A như ß-caroten.

Đối với bệnh tim mạch, các nghiên cứu gần đây cũng thấy rằng việc tiêu thụ cà chua hay chế phẩm cà chua chứa lycopene đã làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch, trong khi bổ sung 400 IU vitamin E/ngày trong khoảng thời gian dài là 4 năm rưỡi đã không thấy có ảnh hưởng có lợi đối với việc ngăn ngừa bệnh tim mạch, ngay cả ở những đối tượng có nguy cơ cao. Một nghiên cứu khác trên một nhóm người đến từ 10 nước ở châu Âu đã thấy rằng hàm lượng lycopene trong mô mỡ của những người bị đột quỵ đã thấp hơn những người khoẻ mạnh, hiện tượng này không thấy có đối với ß-caroten.

Những nghiên cứu về cơ chế tác động của lycopene đối với việc ngăn ngừa bệnh ung thư và tim mạch vẫn đang còn tiếp tục. Người ta vẫn muốn hiểu biết đầy đủ hơn về các cơ chế này từ những nghiên cứu sinh học phân tử và lâm sàng, trên cả người khoẻ và người bệnh, để có những hướng dẫn đúng đắn về việc sử dụng lycopene trong dinh dưỡng và trong y dược.

Vai trò của lycopene trong quả gấc cũng đã được ngành y dược nước ta nghiên cứu trong vài năm gần đây. Các nghiên cứu này bước đầu đã cho thấy lycopene và một số vitamin trong dầu gấc đã có tác dụng dưỡng da, chống lão hoá, giúp bệnh nhân ung thư sau điều trị phẫu thuật, xử lý hoá chất hay tia xạ phục hồi sức khoẻ nhanh chóng, giúp chữa viêm gan, xơ gan, hạ huyết áp, chống khô mắt, mờ mắt và đặc biệt giúp trẻ khoẻ mạnh, mau lớn, ít mắc các bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, viêm phổi…

Dầu gấc đã được chế biến thành thực phẩm thuốc (medical food, một dạng thực phẩm chức năng) và một loại chế phẩm dầu gấc có tên là VINAGA đã được Bộ Y tế Việt Nam cho phép sử dụng từ năm 2002.

Dầu gấc cũng còn dùng làm chất nhuộm mầu thực phẩm tự nhiên, vừa đẹp vừa bền mầu và không độc.
Trái gấc với dáng vẻ xù xì vậy nhưng hiền lành và tốt bụng biết bao!


GS. Vũ Duy Giảng
http://www.daugac.com/view/lycopene-phong-...-benh-tim.shtml
------------------------------------------------
LUTEIN & ZEAXANTHIN : Carotenoid võng mạc
Cập nhật lúc 10:53: 22-12-2006

Trong thời gian gần đây, trên báo chí chúng ta bắt đầu nghe nói đến các chất dinh dưỡng có tên là Lutein và Zeaxanthin có lợi cho sức khoẻ của mắt . Vậy chúng là gì và có vai trò như thế nào đối với sức khoẻ của con người?


Lutein và Zeaxanthin là hai chất thuộc nhóm carotenoid.

Trong nhóm carotenoid này, chúng ta đã khá quen thuộc với các chất như Beta-caroten (tiền chất vitamin A), Lycopene (chất chống ôxy hóa giúp ngăn ngừa các chứng ung thư và bệnh tim mạch). Thật ra nhóm carotenoid có đến 600 chất khác nhau trong thiên nhiên, và chính chúng đã tạo ra cho thiên nhiên các màu sắc của cây, hoa, rau, trái như màu đỏ, vàng, xanh,…

Tuy nhiên các carotenoid ăn được và có trong thực phẩm chỉ có khoảng 50 chất và trong đó chỉ có 13 carotenoid được tìm thấy có hiện diện trong cơ thể con người. Các carotenoid này phân bố khắp cơ thể nhưng đặc biệt đối với Lutein và Zeaxanthin thì đó là 2 carotenoid duy nhất hiện diện trong võng mạc của mắt còn các carotenoid khác thì chỉ có trong huyết tương và trong các tổ chức khác của cơ thể chứ không hiện diện tại võng mạc. Điều này nói lên vai trò đặc biệt quan trọng của Lutein và Zeaxanthin đối với mắt và đây cũng là lý do người ta gọi chúng là 2 carotenoid võng mạc.

Lutein và Zeaxanthin là các carotenoid có màu vàng và chúng đã tạo nên màu vàng của điểm vàng võng mạc, là nơi thu nhận các tín hiệu ánh sáng và giúp chúng ta nhìn thấy được sự vật.

Do ánh sáng tập trung mạnh ở điểm vàng nên điểm vàng là nơi dễ bị tổn thương nhất và Lutein cũng như Zeaxanthin với chức năng chống ôxy hóa đã gíup bảo vệ sự toàn vẹn của điểm vàng.

Các nghiên cứu gần đây cho thấy những người bị thoái hóa điểm vàng tuổi già thường có nồng độ thấp của Lutein và Zeaxanthin tại điểm vàng của mắt cũng như trong máu. Những người có chế độ ăn chứa nhiều Lutein và Zeaxanthin thì ít bị mắc bệnh thoái hóa điểm vàng.

Thoái hóa điểm vàng là bệnh gây mù và không điều trị được, cách hiệu quả nhất vẫn là phòng bệnh bằng một chế độ dinh dưỡng giàu Lutein và Zeaxanthin. Đây là bệnh tiến triển từ từ ngay từ tuổi trẻ và sẽ biểu hiện triệu chứng lúc cao tuổi nên việc phòng bệnh cần được thực hiện ngay từ giai đoạn sớm của cuộc đời.

Lutein và Zeaxanthin có nhiều trong rau xanh như rau cải xoăn, rau bó xôi, bắp ngọt và việc ăn nhiều các loại rau này giúp giảm được nguy cơ bệnh thoái hóa điểm vàng.

Imexpharm
http://www.bsmatvn.com/newsdetail.jsp?id=2...&newstype=3
-------------------------------------------------------------
HÃY ĐEO KÍNH CHỐNG NẮNG NGAY BÊN TRONG ĐÔI MẮT CỦA CHÚNG TA

Tác giả : BS. NGUYỄN VĂN HỮU
Để chống các tác hại của ánh nắng, người ta thường đeo kính chống nắng để bảo vệ đôi mắt. Nhưng ngày nay, với những phát hiện mới của khoa học dinh dưỡng, chúng ta có thể đeo thêm một chiếc kính chống nắng ngay bên trong đôi mắt của mình, đó là chiếc kính “dinh dưỡng Lutein và Zeaxanthin”.
Lutein và Zeaxanthin - “chiến binh chống nắng” bảo vệ mắt

Trong mấy năm gần đây, Lutein và Zeaxanthin đã nổi lên như là các chất dinh dưỡng có ích cho sức khỏe của mắt. Nhiều nghiên cứu dịch tễ học cho thấy có mối liên quan giữa việc ăn nhiều các chất này với việc giảm nguy cơ mắc bệnh thoái hóa mắt, như bệnh thoái hóa điểm vàng và đục thủy tinh thể. Lutein và Zeaxanthin là hai carotenoid duy nhất có ở võng mạc và chúng còn được gọi là carotenoid võng mạc.

Lutein và Zeaxanthin có nhiều trong các loại rau màu xanh đậm và hoa quả màu vàng, đỏ. Rau cải xoăn, bó xôi chứa nhiều Lutein; trong khi cam, bắp ngọt, hạt tiêu lại chứa nhiều Zeaxanthin.

Trong cấu trúc của mắt, điểm vàng là một điểm nhỏ tại trung tâm võng mạc nằm ở phần sau của mắt. Điểm vàng gồm nhiều tế bào thu nhận ánh sáng và chuyển chúng thành những tín hiệu hình ảnh mà não có thể hiểu được. Điểm vàng chịu trách nhiệm đối với việc nhìn màu và nhìn chi tiết các phần trung tâm của ảnh; Tập trung rất chọn lọc và chuyên biệt Lutein và Zeaxanthin trong lớp tế bào võng mạc. Các nhà giải phẫu trước đây đã gọi đây là điểm vàng, bởi lẽ nó có màu vàng của Lutein và Zeaxanthin.

Thủy tinh thể của mắt là một tổ chức protein trong suốt, có chức năng mang những sự vật chúng ta nhìn thấy để hội tụ lên điểm vàng. Thủy tinh thể có nhiều lớp (giống như củ hành), và các protein già nhất sẽ chuyển dần vào sâu bên trong. Sự biến dạng các protein già này sẽ tạo thành nhân của thủy tinh thể bị đục.

Tại điểm vàng của mắt, Lutein và Zeaxanthin có 2 chức năng bảo vệ rất quan trọng. Chúng có khả năng hấp thu chuyên biệt ánh sáng xanh (có bước sóng gần tia cực tím), là ánh sáng có năng lượng cao nhất và có khả năng gây thương tổn cao nhất tại võng mạc. Đây chính là lý do để nói rằng Lutein và Zeaxanthin là “chiếc kính chống nắng” mà chúng ta có thể đeo bên trong đôi mắt của mình. Bên cạnh đó, Lutein và Zeaxanthin còn tác dụng như chất chống ô-xy hóa để chống lại các gốc tự do gây thương tổn điểm vàng.
Lutein và Zeaxanthin giúp giảm thiểu các bệnh về mắt

Thoái hóa điểm vàng là nguyên nhân gây mù quan trọng đối với người cao tuổi. Ở tuổi trên 65, tỷ lệ mắc bệnh này lên đến 20-40% trong cộng đồng. Khi bị thoái hóa điểm vàng, bệnh nhân không nhìn tốt được các chi tiết, bị mù trung tâm do điểm vàng bị hư hại. Đây là bệnh không chữa được, do đó việc phòng bệnh là rất quan trọng.

Nhiều nghiên cứu dịch tễ ngày nay đã cho thấy có mối liên quan giữa việc ăn nhiều thực phẩm giàu Lutein và Zeaxanthin (cũng như nồng độ cao của hai carotenoid này trong máu) với việc giảm nguy cơ mắc bệnh thoái hóa điểm vàng.

Đục thủy tinh thể (bệnh cườm) cũng là một bệnh mắt phổ biến và là nguyên nhân gây mù đối với nhiều người trên khắp thế giới. Bệnh có thể điều trị bằng phẫu thuật thay thế thủy tinh thể. Nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy việc ăn nhiều Lutein và Zeaxanthin có khả năng giúp giảm nguy cơ bị bệnh đục thủy tinh thể.

Lutein và Zeaxanthin là thành phần chính cấu tạo nên điểm vàng của mắt, và sự toàn vẹn của điểm vàng sẽ giúp cho mắt nhìn sự vật được dễ dàng và rõ nét hơn. Khi ảnh của vật đã được nhìn thấy rõ thì mắt sẽ không cần thiết phải điều tiết nhiều, do đó giúp mắt không bị mỏi và giảm thiểu nguy cơ gây tật cận thị do điều tiết quá mức trong thời gian dài. Cận thị là một tật khúc xạ của mắt rất phổ biến hiện nay, do nhiều nguyên nhân gây ra. Nhưng nếu đảm bảo có một chế độ dinh dưỡng tốt, đặc biệt là các chất như Lutein, Zeaxanthin, vitamin A và vitamin E thì sẽ góp phần giảm được nguy cơ mắc bệnh.

Một nghiên cứu của Mỹ cho thấy mức độ tiêu thụ 2 dưỡng chất Lutein và Zeaxanthin có trong thực phẩm ở cộng đồng là chưa đủ, chỉ vào khoảng 0,8mg/ngày, trong khi nhu cầu khuyến nghị hàng ngày theo một số nghiên cứu được nêu là khoảng 5mg đối với Lutein và 1mg đối với Zeaxanthin.

Ăn nhiều thực phẩm giàu Lutein và Zeaxanthin, dùng viên thuốc bổ sung Lutein và Zeaxanthin cũng như không hút thuốc lá, tránh tiếp xúc với ánh nắng, đọc sách đúng tư thế và trong môi trường đủ ánh sáng là những biện pháp hữu hiệu để giảm nguy cơ mắc các bệnh về mắt nói trên.
http://www.ykhoanet.com/yhocphothong/nhankhoa/01_0047.htm

--------------------------------------

Go to the top of the page
 
+Quote Post
KinhThanh
bài Jan 28 2011, 07:52 AM
Bài viết #36


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Vitamin E là gì ?

Tất cả tocopherol ở nhiệt độ đều có cùng một hình thái : đó là những dịch dầu, nhớt, màu vàng.
Chúng không tan trong nước nhưng rất tan trong mỡ và trong các dung môi của mỡ (ether, aceton, chloroform, methanol, alcool).
Ở dạng tự do, đó là những chất chống ôxy hóa : chúng bị phá hủy bởi ôxy và các ôxy hóa. Thiếu ôxy, chúng ổn định ở nhiệt độ (khi thức ăn được nấu, vitamin E mất khoảng 20%) và môi trường acid, nhưng chúng nhạy cảm với ánh sáng. Do đó cần giữ chúng trong các lọ đậy nắp kín và mờ.
Khả năng hấp thu của nó có được ở phần giữa của ruột non. Liên hệ mật thiết với quá trình tiêu hóa mỡ và cần thiết phải có muối mật cùng men lipase của tụy. Được hấp thu cùng lúc với các chất béo, đến hệ tuần hoàn bằng đường bạch huyết.
Trong huyết tương, hàm lượng alphatocopherol tổng quan với hàm lượng lipid toàn phần, nó được đi kèm với lipoprotein LDL, HDL, thật lý thú để nhận thấy rằng, có tocopherol được liên kết lipoprotien HDl, ở người nam, phần lớn được liên kết với LDL.
Mô bắt giữ tocopherol từ lipoprotein của máu. Tổ chức chứa từ 3,4 đến 8g, với người trưởng thành tỉ lệ này thay đổi tùy theo mô.
Dạng tổng hợp, tức là vitamin E được sản xuất bởi bào chế chứa các đồng phân của 8-steroid. Dạng tự nhiên là một trong những stereoisom này, RRRd-alpha-tocopherol.
Vai trò của Vitamin E ?
Đó là những tác dụng âm tính khi thiếu vitamin E lên khả năng sinh sản và thụ thai, nhưng tầm quan trọng là vai trò của nó vượt quá giới hạn này rất nhiều.
Mặc dù tính đa dạng của các tác dụng này cùng những cơ chế hoạt động của nó vẫn chưa được thiết lập rõ ràng, nhưng đặc tính ôxy hóa của vitamin E đã thể hiện tầm quan trọng trong số các hiện tượng sinh lý khác.
Chống ôxy hóa :
Nó có khả năng chống ôxy hóa và tác động bằng cách ngăn ngừa hay gián đoạn các phản ứng chuỗi, mà chính phản ứng tạo ra các gốc tự do.
Người ta thấy rằng, gốc tự do lại là những phân tử chứa một điện tử độc thân, không ổn định và có thể tấn công bất cứ phân tử khác (Acid béo của màng tế bào, mỡ lưu thông trong máu, protein, vitamin, acid nucleic của gen). Một acid béo bị phá hủy cũng trở thành gốc tự do và tiếp tục phá hủy các tổ chức lân cận.
Đó là quá trình hình thành chuỗi phản ứng. Nó có thể được kết thúc khi tạo thành aldelyse, giống như MDA mà người ta biết rằng, ngày nay định lượng nó trong máu được dùng để đánh giá mức độ của “stress ôxy hóa”. MDA cũng rất độc, vì nó có thể làm hư hỏng gen. Quá trình biến đổi này của gen diễn ra hàng ngày, giáo sư Ames, trường đại học Berkeley, đã tính rằng mỗi ngày các gen của một tế bào chịu khoảng 10.000 thương tổn các gốc tự do này cùng các dẫn xuất của chúng.
Một hệ thống sửa chữa có hiệu quả cho phép thay thế những phần gen bị phá hỏng, nhưng hệ thống này lại bị mã hóa bởi gen và cuối cùng nó cũng bị hư hỏng. Điều này xảy ra với tuổi, các thương tổn khi đó không được sửa chữa mà tích tụ lại. Cũng như vậy, các gen có một chương trình hoạt động của các tế bào, điều đó khiến nó chứa càng ngày càng sai lầm. Đó là một hiện tượng phổ biến, giải thích mức độ suy tàn của các chức năng khác nhau là theo tuổi tác.
- Gen hư hỏng sẽ liên quan đến sự nhân lên của tế bào, một triệu chứng khởi đầu của ung thư. Nó xuất hiện giống như một trong những biểu hiện của hiện tượng bào mòn bởi các gốc tự do.
- Mỡ trong hệ tuần hoàn bị ôxy hóa bởi các gốc tự do hình thành những mảng xơ vữa động mạch.
- Protein của thủy tinh thể bị ôxy hóa sẽ gây ra bệnh đục nhãn mắt.
- Cấu trúc thần kinh bị ôxy hóa sẽ giảm trí tuệ và gây ra bệnh Alzheimer hay bệnh Parkinson.
Những gốc tự do này đến từ quá trình tiếp xúc với chất gây ô nhiễm ở bên ngoài. Tiếp xúc nhiều với mặt trời, uống nhiều rượu, dư thừa calo, thuốc lá, ô nhiễm hóa chất, thuốc, chụp scanner, điều trị bằng tia xạ, ô nhiễm bên trong như : đốt cháy đường và mỡ không hoàn toàn thì 50% năng lượng này đã phung phí trong tổ chức, dưới dạng gốc tự do.
Ngoài ra, những triệu chứng như : nhiễm trùng, dị ứng, viêm mạn tính, hoạt hóa các bạch cầu cũng làm giải phóng ra các gốc tự do. Vì vậy, điều cần thiết đối với chúng ta là duy trì mức độ trung hòa tối đa để loại bỏ stress ôxy hóa này.
Vitamin E, bêta-caroten và vitamin C là ba chất hoàn thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu này. Một phân tử vitamin E được đặt giữa một vài acid béo không no để bảo vệ chúng. Nếu một gốc tự do tấn công vào, thì hoặc là phân tử vitamin E được đặt vào giữa, hoặc là nó chuẩn bị lấy electron tự do. Đặc biệt, khi vitamin E ở ngoài trận đấu, nó sẽ bị loại ra khỏi tổ chức bởi vì bị ôxy hóa, và không thể tiếp tục nhiệm vụ khử nữa.
Kiểm soát tiểu cầu của máu :
Vitamin E không chỉ là một chất chống ôxy hóa mà còn tác động bởi nhiều cơ chế khác nữa, chưa được chứng minh. Nó kiểm soát tính hoạt động của tiểu cầu gây nguy hiểm đối với hệ tim-mạch, và làm giảm sự tăng sinh của các tế bào cơ trơn, đồng thời tấn công vào thành động mạch trong chống xơ vữa động mạch, cũng như sự tăng sinh đối với một vài tế bào ung thư.
Thức ăn nào cung cấp Vitamin E ?
Thức ăn giàu vitamin E nhất là trái cây có dầu, chẳng hạn dầu thực vật và mầm ngũ cốc.Người ta cũng tìm thấy vitamin E trong một vài thực phẩm có nguồn gốc động vật, (gan, trứng, cá béo, chất béo của sữa…) trong rau xanh.
Nguồn cung cấp tự nhiên của vitamin E
Dầu của mầm lúa mì
Margarine
Dầu cọ
Dầu bắp
Dầu đậu nành

Ngũ cốc, bánh mì
Thịt đỏ

Tất cả nguồn giàu vitamin E đều giàu acid béo không no. Điều này không phải ngẫu nhiên mà do vitamin E có mặt để bảo vệ chúng, nhưng càng ăn nhiều acid béo không no, càng cần nhiều vitamin E để bảo vệ khỏi nguy cơ ôxy hóa.
Một nghiên cứu của Đức chứng minh rằng, phần lớn những nguồn giàu vitamin E nhất sẽ tiêu thụ hầu hết hoặc đôi khi nhiều hơn những gì nó mang đến.
Người ta thấy rằng có một giới hạn kỹ thuật để cung cấp thức ăn vitamin E, mà nhu cầu cung cấp thêm hàng ngày dường như cần thiết.
Nhu cầu hàng ngày về Vitamin E là bao nhiêu ?
Hoặc là đơn vị quốc tế cũ (U.I), tương ứng với một 1mg của dạng vitamin E tổng hợp.
Hoặc là đơn vị mới (Alpha TE) tương ứng với 1 mg dạng sinh học hoạt động nhất, tương đương với 1,49 U.I.
Khó xác định liều thường ngày cần thiết, vì nó tùy theo tuổi, giới tính, tình trạng thể lực, các thức ăn cung cấp vào….
Khi ăn nhiều thức ăn có chứa acid béo không no, phải cần cung cấp thêm vitamin E để ổn định chúng, tức là ngăn ngừa quá trình ôxy hóa các acid béo không no này.
Theo nghiên cứu của Val-de-Marme, hầu như không ai có thể nhận đầy đủ lượng vitamin E được khuyên từ thức ăn tùy theo tuổi 40 đến 90% trong số họ nhận ít hơn 2/3.
Tương tự như các vitamin khác và muối khoáng, nhu cầu cung cấp vitamin E cũng được tính để tránh thiếu vitamin. Nó không tương ứng với nhu cầu cung cấp tối ưu cho phép, cũng như những hoạt động sinh hóa cần thiết cho hoạt động của chúng ta diễn ra trong những điều kiện tốt nhất, góp phần phòng ngừa bệnh lý.
Hai nghiên cứu mới đây được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu trường đại học Harvard, một trong 399910 bác sĩ và một trong 87245 y tá, cho thấy rằng: đưa vào 30 đơn vị vitamin E sẽ không đủ, và lượng với cung cấp thêm bằng hoặc trên 100 đơn vị mỗi ngày, dùng ít nhất trong hai năm mới có thể làm giảm tần suất bệnh tim mạch. Điều này cao hơn 6 lần so với nhu cầu cung cấp được khuyên. Một nhu cầu cung cấp thêm như vậy không hủy bỏ nguy cơ mà chỉ làm giảm một nửa.
Hàm lượng vitamin E cung cấp được khuyên

Trẻ còn bú :4 UI/ngày
Trẻ từ 1 đến 3 tuổi :7 IU/ngày
Trẻ từ 4 đến 9 tuổi :10 IU/ngày
Trẻ 10 đến 12 tháng :15 IU/ngày
Thanh niên, trưởng thành :18 IU/ngày
Phụ nữ có thai, cho con bú : 18-25 IU/ngày

Một số thực nghiệm cho thấy:
Liều càng cao tính bảo vệ cao
Vitamin E không là tác nhân bảo vệ duy nhất. Bêta-caroten, vitamin E, selen, magesi và chất lượng của các acid béo được ăn đóng một vai trò quan trọng.
Nếu các yếu tố nguy cơ (tỉ lệ cholesterol tăng cao, cao huyết áp, đái tháo đường, nghiện thuốc lá, được thêm vào thì một số nghiên cứu khác chỉ ra rằng, liều bảo vệ của vitamin E khoảng 800 UI/ngày, nhưng nhu cầu này có thể tăng lên mà không cần yếu tố nguy cơ.
Vào năm 1993, hội nghị về các gốc tự do và thể thao ở Valence, Tây Ban Nha, đã kết luận rằng, tập luyện càng nhiều, tiêu thụ vitamin E càng tăng (phải cần 400 UI/ngày cho những người leo núi).
Trong một lĩnh vực khác, ngăn ngừa ung thư của miệng và thanh quản, Gridley đã kết luận tương tự : chỉ bổ sung 100 UI/ngày để làm giảm một nửa tần suất bị bệnh này.
Một thí dụ khác: Ở những bệnh nhân SIDA, Baum đã kết luận không thể duy trì hàm lượng vitamin E bình thường trong máu mà phải dùng thêm hàng ngày, cao hơn 6 lần nhu cầu cung cấp được khuyên.
Tóm lại, với người lành trong những tình huống đặc biệt (thể thao, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời), hay những người có yếu tố nguy cơ, và bệnh nhân thì cần thiết phải bổ sung để bảo đảm cho nhu cầu, bổ sung dạng tự nhiên được ưa thích hơn dạng tổng hợp.
Thiếu Vitamin E biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Vitamin E, giống tất cả các vitamin tan trong mỡ, đi qua nhau thai kém. Vì vậy, em bé mới sinh ra có lượng vitamin E rất thấp, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho vỡ hồng cầu và vàng da sau khi sinh, đặc biệt khi hồng cầu đột ngột bị tiếp xúc với ôxy được mang đến từ phổi. Ở trẻ em đẻ non, tình trạng này càng trầm trọng hơn, nó sẽ gây ra thiếu máu huyết tán, phá hủy hồng cầu, từ 4 đến 6 tuần ở đứa trẻ nhẹ cân lúc sinh ( nhỏ hơn 1,5 kg) nếu không được cung cấp thêm. Ngoài ra, bổ sung vitamin E làm giảm xuống 4 lần nguy cơ chảy máu não ở trẻ đẻ non.
Một vài đứa bé được sinh với bệnh di truyền hay bất thường bẩm sinh sẽ giảm khả năng hấp thu tất cả các vitamin trong dầu, do đó cần phải đưa vào mỗi ngày một lượng lớn các vitamin này.
Biểu hiện của thiếu vitamin E được thể hiện đầu tiên ở (neuron), thần kinh của não và dây thần kinh ngoại biên. Sau đó là mô mỡ. Ở trẻ có hệ thần kinh đang phát triển, và người già sẽ rất dễ bị tổn thương khi thiếu vitamin E. Thiếu vitamin E ở người lớn âm ỉ hàng chục năm mới xuất hiện dấu hiệu thần kinh sau đây :
Tổn thương hệ thần kinh ngoại biên cùng với giảm phản xạ và cảm giác sâu.
Bệnh cơ và yếu cơ.
Rối loạn quá trình phối hợp các động tác hay thất điều.
Tổn thương võng mạc, có thể tiến triển đến viêm võng mạc.
Ở người già, người ta nghi ngờ rằng thiếu vitamin E tạo thuận lợi cho thoái hóa não (bệnh Parkinson, Alzheimer).
Phần lớn người trưởng thành, thiếu vitamin E có thể vẫn âm ỉ trong hàng chục năm, khi đó nó không đủ lượng trong cơ quan để bảo đảm cho đặc tính bảo vệ hiệu quả của màng tế bào và mỡ trong tuần hoàn. Kết quả là xuất hiện đột ngột bệnh tim mạch và một vài bệnh ung thư.
Ngoài ra, vitamin E còn cần thiết để kiểm soát hiện tượng viêm, và dị ứng, cũng như cần cho hoạt động của sức đề kháng miễn dịch. Sự suy yếu này sẽ cạnh tranh với - sự gia tăng tần số bị nhiễm trùng khiến cho hiện tượng viêm và dị ứng nặng thêm.
Những ai dễ bị thiếu Vitamin E ?
Ngoài những tình huống đặc biệt trên, nhu cầu vitamin E tăng trong những trường hợp sau :
Thức ăn giàu acid béo không no, ngạy cảm với ôxy hóa.
Cung cấp nhiều sắt, đó là một chất tiền oxy hóa mà khi dùng chúng phải luôn luôn được kèm với vitamin E.
Thể thao.
Thay đổi độ cao (trên 2000m)
Uống quá nhiều rượu.
Ngộ độc thuốc lá.
Những người tiếp xúc với ô nhiễm (thợ tẩy, cắt tóc, người bảo dưỡng công nhân của công nghiệp xăng dầu…)
Những yếu tố nguy cơ tim mạch (béo, đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu…)
Yếu tố nguy cơ và tiền sử gia đình bị ung thư.
Bệnh Crohn.
Lọc máu.
SIDA.
Trường hợp nào nên dùng Vitamin E ?
Vitamin E được chỉ định
- Ngăn ngừa và điều trị thiếu máu cũng như tan huyết và chảy máu não ở trẻ sinh non, thiếu cân.
- Ngăn ngừa chứng thoái hóa thần kinh cơ ở trẻ em bị mucoviscidose hay hẹp đường mật (kết hợp với các vitamin tan trong dầu khác).
- Ở người chơi thể thao, tạo thuận lợi cho việc hồi phục hư hỏng cơ và hồi phục sức đề kháng, do gắng sức.
- Ngăn ngừa nhiễm trùng tai, mũi, họng mùa đông, khi bị nhiễm trùng, ngăn ngừa tái phát nhiễm trùng, trong những tình trạng được đi kèm với suy giảm miễn dịch : tuổi, tiếp xúc nhiều với mặt trời, nghiện thuốc lá, đái tháo đường, bệnh gan, suy thận, và ở những người HIV (+) và người bệnh SIDA (bằng cách kết hợp với vitamin C và bêta-caroten).
- Điều trị trứng cá bằng cách kết hợp với bêta-caroten và kẽm.
- Dị ứng, viêm mãn tính và bệnh tự miễn.
- Viêm cấp (bỏng) điều trị phóng xạ, viêm tụy cấp.
- Trong đái đường, để làm chậm sự xuất hiện biến chứng.
- Người hút thuốc lá, nghiện rượu, người tiếp xúc với ô nhiễm nặng.
- Ngăn ngừa và điều trị hỗ trợ một vài loại ung thư, đặc biệt là các ung thư được điều trị với tia xạ và hóa trị liệu.
- Ngăn ngừa và điều trị bổ sung đau thắt ngực, nhồi máu, viêm động mạch, tai biến mạch máu não và các yếu tố nguy cơ của nó. Đặc biệt đi dùng khi quá nhiều cholesterol trong máu, cao huyết áp, đái tháo đường và nghiện thuốc lá.
- Bằng cách kết hợp với liều cao acid béo không no, dưới dạng dầu cá hay dầu ngựa. Dầu cá được sử dụng chống lại sự dư thừa mỡ trong máu. Sau đó nông động mạch vành, để chống lại sự ngưng tụ quá mức của tiểu cầu gây ra cục máu đông, và ngăn ngừa huyết khối, dị ứng, hiện tượng viêm cùng với bệnh tự miễn. Dầu ngựa được sử dụng điều trị chàm, đái tháo đường, xơ cứng rải rác. Nếu những dầu vùng này không được bổ sung vitamin E, nó có thể bị ôxy hóa và tác dụng trở nên âm tích.
- Ngăn ngừa sự thoái hóa của não đi kèm với lão hóa.
- Hỗ trợ trong điều trị co giật, đặc biệt khi trơ với thuốc chống động kinh.
- Trong một vài trường hợp lupus và xơ cứng bì.
- Trong một bệnh hiếm : thoái hóa não ở người trẻ.
Dùng Vitamin E thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ?

Vitamin E, giống như bêta-caroten, vitamin C và phần lớn các vitamin B là không độc, ngay cả liều cao được dùng kéo dài.
Tuy nhiên, nó sẽ làm giảm kết dính tiểu cầu cần thiết cho sự đông máu và có thể hấp thu vitamin K.
Nó có thể xảy ra ở những bệnh nhân dùng kháng vitamin K hay bị rối loạn đông máu và tạo thuận lợi cho chảy máu.
Để tốt hơn, những người này nên tránh dùng liều cao hơn 200UI/ngày và ngừng dùng vitamin E một vài tuần trước khi phẫu thuật.
----------------------------------------
1. Vitamin E là gì?

Vitamin E là một trong những chất nằm trong nhóm vitamin và cũng tuân theo chức năng của nhóm vitamin là tham gia vào các phản ứng của cơ thể với vai trò xúc tác, giúp cơ thể chuyển hóa (trong những trường hợp cụ thể, nếu thiếu có thể gây ra những bất thường cho cơ thể). Ví dụ phụ nữ khi mang thai những tháng đầu, nếu thiếu vitamin B9 (acid folic) có thể sẽ gây bất thường về ống thần kinh. Như vậy, tuy vitamin E không phải là một chất tham gia trực tiếp vào quá trình chuyển hóa của cơ thể nhưng lại có tính chất góp phần rất quan trọng trong quá trình này, giúp cho cơ thể khỏe mạnh, chống lại sự sản xuất dư thừa gốc tự do, chống lại quá trình chết tế bào, kìm hãm quá trình lão hóa, giúp da tóc mịn màng...., ngoài ra còn có nhiều tác dụng khác giúp nâng cao chất lượng sống của con người.

2. Có bao nhiêu dạng vitamin E?

Có hai loại vitamin E: Loại có nguồn gốc thiên nhiên và loại tổng hợp.

- Vitamin E có nguồn gốc thiên nhiên: Ðược chiết xuất từ dầu thực vật như đậu tương, ngô, mầm lúa mạch, các loại hạt có dầu như hạt hướng dương. Vitamin E thiên nhiên là một đồng phân duy nhất của d-alpha tocopherol. Có 4 loại tocopherol là alpha, beta, gamma và delta, nhưng alpha là dạng chính (Cũng là vitamin E thiên nhiên) tồn tại trong cơ thể, có tác dụng cao nhất. Tuy nhiên các dạng khác như beta, gamma và delta dù hoạt tính thấp hơn loại alpha nhưng cũng có tác dụng hỗ trợ rất lớn cho sức khỏe con người.

- Mặc dù có tác dụng tốt nhất trong các loại tocopherol, nhưng do chiết xuất từ các thực phẩm thiên nhiên nên không kinh tế, vì vậy người ta đã sản xuất ra loại vitamin E tổng hợp. có công thức là dl - alpha tocopherol, gồm 8 đồng phân nhưng chỉ có 1 đồng phân giống vitamin E thiên nhiên là d - alpha tocopherol (chỉ chiếm 12,5%), vì vậy tác dụng của vitamin E tổng hợp thấp hơn so với loại có nguồn gốc thiên nhiên.

Vì loại d - alpha tocopherol có tác dụng chính, vì vậy Hội đồng nghiên cứu Quốc gia Mỹ đã lấy nó làm tiêu chuẩn và dùng đơn vị quốc tế IU để đánh giá hoạt tính của vitamin E trong các chế phẩm thương mại trên thị trường.

Về cơ chế hấp thu và sử dụng hai loại vitamin E thiên nhiên và tổng hợp trong cơ thể không có gì khác nhau, nhưng loại vitamin thiên nhiên được sử dụng nhiều hơn khoảng 50% so với loại tổng hợp. Vì vậy muốn đạt được hiệu quả mong muốn thì khi sử dụng vitamin E tổng hợp, phải uống tăng liều lên gấp 1,4 lần so với loại thiên nhiên. Lượng vitamin E dư thừa trong cơ thể do không được sử dụng sẽ nhanh chóng bị đào thải.

Các công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng vitamin E có tác dụng chống lại gốc tự do NO (Oxid Nitric) trong cơ thể (khi chất này dư thừa sẽ gây tác dụng xấu).

3. Tác dụng của vitamin E đối với thai nghén

Khi phát hiện ra vitamin E và nhận thấy nó có tác dụng tốt đối với thai nghén, người ta đã đặt tên khoa học cho vitamin E là Tocopherol, theo tiếng Hy Lạp nghĩa là mang lại sự sinh sản. Trong những trường hợp thai nghén thường có nguy cơ cao như hội chứng rối loạn tăng huyết áp trong thai nghén (Trước đây gọi là nhiễm độc thai nghén), người ta đã cho thai phụ ở tình trạng tiền sản giật uống hàng ngày vitamin E phối hợp với vitamin C. Kết quả đã làm giảm nhẹ bệnh và 76% số bệnh nhân không còn tình trạng tiền sản giật. Người ta cũng nhận thấy nếu được uống bổ sung thường xuyên 400 đơn vị vitamin E và 1.000mg vitamin C hàng ngày vào 3 tháng giữa của thai kỳ, sẽ làm giảm tỷ lệ thai phụ bị tiền sản giật. Loại vitamin E có nguồn gốc thiên nhiên được hấp thu vào máu và truyền sang thai nhi nhiều hơn và hiệu quả hơn so với loại vitamin E tổng hợp. Sở dĩ vitamin E góp phần thuận lợi cho quá trình mang thai, sự phát triển của thai nhi và giảm được tỷ lệ sẩy thai hoặc sinh non là do đã trung hòa hoặc làm mất hiệu lực của gốc tự do trong cơ thể.

4. Các tác dụng khác của vitamin E đối với cơ quan sinh sản phụ nữ.

Vitamin E cũng làm giảm nhẹ các triệu chứng chuột rút, đau các bắp cơ hoặc đau bụng khi hành kinh ở các em gái tuổi vị thành niên. Các em gái nếu được dùng vitamin E ngay từ đầu của kỳ kinh sẽ giảm được 36% đau khi hành kinh.

- Qua nghiên cứu thực nghiệm, các nhà khoa học nhận thấy vitamin E có thể ức chế quá trình oxy hóa DNA nên đã ức chế hoạt động của chuỗi tế bào ung thư vú, làm giảm được 95% sự gia tăng tế bào ung thư vú ở người sử dụng alpha tocopherol, nghĩa là vitamin E có thể gây độc có tính chọn lọc đến các tế bào ung thư vú.

- Các nghiên cứu khác cho thấy những phụ nữ được bổ sung vitamin E thì tỷ lệ bị ung thư buồng trứng thấp hơn 67% so với nhóm không được sử dụng. Liều vitamin E bổ sung hàng ngày là 75mg, tương đương với 110 đơn vị vitamin E thiên nhiên. Người ta cũng khuyến cáo: Bổ sung vitamin E kèm với vitamin C hàng ngày có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng.

- Ngoài ra vitamin E còn góp phần cải thiện tình dục, giúp noãn (trứng) và tinh trùng phát triển tốt hơn, nâng cao kết quả điều trị vô sinh.

5. Tác dụng chính của vitamin E đối với da và tóc

Hàng ngày, da thường tiếp xúc với ánh nắng có nhiều tia cực tím nên dễ bị hủy hoại, mất tính chun giãn và sạm lại. Dùng kem bôi da có chứa vitamin E sẽ giúp giảm sự bốc hơi nước và giảm mức độ nhạy cảm đối với tia cực tím, chống được sạm da. Ðối với người bị viêm da dị ứng (làm rối loạn màu sắc của da và gây ngứa do da chứa nhiều IgE), vitamin E có tác dụng giảm nồng độ IgE, trả lại màu sắc bình thường và làm mất cảm giác ngứa.

Khi có tuổi, da mất tính chun giãn, đồng thời do tác dụng của lượng gốc tự do dư thừa sẽ làm da nhăn nheo, mất độ chun giãn, tóc xơ cứng, giòn, dễ gãy, vitamin E có thể giúp cải thiện tình trạng trên (làm da mềm mại, tóc mượt ít khô và gãy như trước) do đã làm giảm tiến trình lão hóa của da và tóc.

6. Sử dụng vitamin E có an toàn không?

Nói chung việc sử dụng vitamin E khá an toàn. Lượng dư thừa, không được sử dụng sẽ nhanh chóng đào thải ra khỏi cơ thể. Liều cần thiết cho cơ thể sử dụng hàng ngày trung bình khoảng từ 100-400 đơn vị. Vitamin E hầu như không có tác dụng phụ khi sử dụng ở liều thông thường. Tuy nhiên khi lạm dụng vitamin E, dùng liều quá cao có thể gây buồn nôn, dạ dày bị kích thích hoặc tiêu chảy, chóng mặt, nứt lưỡi hoặc viêm thanh quản. Những triệu chứng này sẽ nhanh chóng mất đi sau khi ngừng thuốc.

Tuy nhiên vitamin E có thể làm tăng tác dụng của thuốc chống động gây chảy máu. Khi dùng chung với Aspirin vitamin E có thể cản trở sự ngưng kết tiểu cầu của Aspirin.

7. Có thể tìm vitamin E ở đâu?

Vitamin E có rất nhiều trong các thực phẩm nguồn gốc thiên nhiên có nhiều chất béo như: đậu tương, giá đỗ, vừng, lạc, mầm lúa mạch, hạt hướng dương, dầu ô-liu. Vì vậy chỉ cần ăn nhiều dầu thực vật hoặc các thức ăn có nhiều vitamin E hàng ngày là đủ. Nếu thiếu, trong một số trường hợp cụ thể nên được các bác sĩ tư vấn về sự cần thiết có phải sử dụng vitamin E không? Nếu cần thì liều lượng thế nào và thời gian sử dụng bao lâu? Hiện nay các nhà thuốc có bán loại vitamin E nguồn gốc thiên nhiên, dạng viên nang, một vỉ 10 viên với tá dược là dầu đậu tương, hàm lượng thích hợp và dễ dùng.
Tác giả : TS. VƯƠNG TIẾN HÒA (Giảng viên ÐH. Y Hà Nội Chuyên viên BV. Phụ sản Trung ương)
-----------------------------------
Các tên tocopherol (Vitamin E) bắt nguồn từ các từ tiếng Hy Lạp của tokos, nghĩa là "con đẻ" và pherein, nghĩa là "chịu," chứng minh sự cần thiết của nó trong quá trình sinh sản.Trước đây được biết như là vitamin "antisterility", sự thiếu hụt trong đó có liên quan đến sẩy thai.
Như một dẫn xuất của chromanol, Vitamin E tự nhiên bao gồm tám hình thức của hợp chất tocopherol và tocotrienol hàng tại các nhà máy, với các hoạt động và được biết đến là alpha-tocopherol potently nhất.Of the two, tocopherols are the most active form, designated alpha, beta, gamma, delta, epsilon, zeta, eta, and theta, with only four having Vitamin E activity (alpha, beta, gamma, and delta). Trong hai, tocopherols là hình thức hoạt động mạnh nhất, được alpha, beta, gamma, delta, epsilon, zeta, eta, và theta, chỉ có bốn hoạt động có Vitamin E (alpha, beta, gamma, và đồng bằng). Các hình thức dl được tổng hợp. Tocopherol là tên được sử dụng khi đề cập đến vitamin E, và là một cái tên chung cho tất cả-, mono-di, và tocols tri-methyl. Các, gamma beta, và các hình thức đồng bằng của tocopherols hơi khác trong cấu trúc hóa học và nói chung có thấp hơn "Vitamin E" hoạt động,
Tocotrienols có thể sinh học có hoạt động tương đương với các tocopherols nhưng thường được coi là có tầm quan trọng dinh dưỡng ít hơn.
Không giống như các vitamin tan trong chất béo, vitamin E được lưu trữ trong cơ thể trong một thời gian tương đối ngắn, giống như vitamin B và C. Kể từ khi Vitamin E là một hợp chất tan trong chất béo, nó được hấp thụ một cách tương tự như các chất béo. Nó phải được chia nhỏ theo các axit mật được tiết từ gan để được mang đến các tế bào đường ruột hấp thụ (thông qua trung gian vận chuyển không thụ động quá trình khuếch tán). Bất kỳ rối loạn làm giảm diện tích bề mặt của các tế bào đường ruột, như bệnh celiac hoặc loại bỏ các phẫu thuật của các bộ phận của ruột, sẽ gây ra sự kém hấp thu của vitamin E cũng như các chất dinh dưỡng khác.
Các chức năng gan như là một cửa hàng kim ngạch nhanh chóng của Vitamin E, không bao giờ tích lũy một khối lượng lớn, với 60-70% bài tiết trong phân. Mô mỡ là khu vực lưu trữ lâu dài, nhưng Vitamin E tích tụ từ từ đó và được phát hành chỉ là chậm. Muscle tissue accounts for much of the stores of Vitamin E. Mô cơ chiếm phần lớn các cửa hàng của vitamin E.
Là một chất chống oxy hóa hoạt động, Vitamin E, cùng với các Vitamin A, Selenium, và Vitamin C, ngăn chặn quá trình oxy hóa của các hợp chất béo.Điều này là rất quan trọng trong việc ngăn chặn sự hình thành của các gốc tự do, được biết đến với đóng góp đáng kể vào quá trình bệnh, từ hình thành. Vitamin E sẽ xuất hiện để ngăn chặn prostaglandin (chất hóa học làm giảm phản ứng miễn dịch) và để bảo vệ màng tế bào khỏi bị tấn công bởi các mầm bệnh .Nó có thể được phá hủy bởi nhiệt, nhiệt độ đóng băng, dưỡng khí, chế biến, sắt, clo, dầu khoáng sản.

Bên ngoài, Vitamin E ngăn chặn hình thành sẹo dày. Nội bộ, nó đã được sử dụng để ngăn chặn thiệt hại màng tế bào, tốc độ chữa bệnh của bỏng, như một thuốc lợi tiểu và chống đông máu một, và để làm giảm chuột rút chân. Nó cũng đã được chứng minh để điều trị bệnh thành công fibrocystic của vú, cải thiện điều kiện 70%. Trẻ em bị động kinh có hiển thị mức độ thấp của vitamin E, đã được chứng minh để giúp kiểm soát cơn động kinh. Đối với hơn nửa thế kỷ một, Vitamin E đã thể hiện một hiệu ứng tăng cường về tim, một khái niệm tiên phong của Brothers Shute của Canada. Thông thường, các lý thuyết của họ đã gặp phải sự kháng cự từ các đối tác y tế của họ .Ngày nay, khoa học cuối cùng cũng đã bắt kịp, xác nhận yêu cầu của mình.
Sự cần thiết của vitamin E trong thời kỳ mãn kinh có thể tăng lên mười lần số tiền năm mươi bình thường cần thiết trong những năm tiền mãn kinh. Hot flashes have reportedly diminished in some people when supplements of 1200 mg. Hot có báo cáo nhấp nháy giảm ở một số người khi bổ sung của 1200 mg. were taken along with 1000 mg. được chụp cùng với 1000 mg. of hesperidin (a bioflavonoid). của hesperidin (a bioflavonoid).
Vitamin E thiếu hiếm khi xảy ra do một lượng không đủ. It happens more often when such malabsorption disorders as cystic fibrosis, abetalipoproteinemia, chronic cholestatic liver disease, short bowel syndrome, celiac disease, and chronic diarrhea develop. Nó xảy ra thường xuyên hơn khi các rối loạn kém hấp thu như xơ nang, abetalipoproteinemia, bệnh gan mãn tính ứ mật, hội chứng ruột ngắn, bệnh celiac, và tiêu chảy mãn tính phát triển. ác kém hấp thu trầm trọng nhất của vitamin E xảy ra khi dòng chảy mật bị suy yếu hoặc khi tổng hợp lipoprotein ruột là khiếm khuyết. Khi kém hấp thu xảy ra ở người lớn, nó thông thường phải mất vài năm trước khi plasma Vitamin E làm giảm tới một loạt nguy hiểm còn thiếu. Trẻ em, mặt khác, những người có vấn đề về kém hấp thu từ khi sinh ra, phải mất một thời gian tương đối ngắn. Nếu nó không được điều trị, thần kinh và các triệu chứng phát triển nhận thức.
Vitamin E chủ yếu ảnh hưởng đến sự thiếu hụt các cột sau của tủy sống, thứ ba và thứ tư hạt nhân dây thần kinh sọ, các sợi trục cỡ lớn bao myelin của dây thần kinh ngoại vi, não gốc, và cuối cùng cơ bắp và võng mạc. Vì vậy, các triệu chứng điển hình bao gồm mất phản xạ gân sâu, thay đổi trong sự cân bằng và phối hợp, phong trào người khiếm của mắt (ophthalmoplegia), yếu cơ, và rối loạn thị giác. Nếu thiếu Vitamin E được sửa chữa trong những năm đầu của cuộc sống, tất cả các triệu chứng có thể bị đảo ngược hoặc ngăn chặn. Nếu không giải quyết cho đến khi các triệu chứng cũng được nâng cao, cải thiện hạn chế có thể được dự kiến.
Khi uống Vitamin E lần đầu tiên, nó là tốt nhất để bắt đầu với một liều lượng nhỏ, tăng dần. Một bất ngờ lớn liều có thể sản xuất đau đầu hoặc làm nặng thêm bệnh tim thấp khớp. Vitamin E có thể bị phá hủy bởi các dạng sắt vô cơ của sắt sunfat. Nếu mẫu này được thực hiện, cần được làm như vậy ít nhất tám giờ đi từ bất kỳ bổ sung Vitamin E. Vấn đề phát sinh từ việc thêm số tiền, và không có các chế phẩm có chứa cả Vitamin E và sắt với nhau. Các hình thức vô cơ của gluconate màu, peptonate, citrate, hoặc fumerate không phá hủy vitamin E. Vitamin E có sẵn trong cơ sở dầu mỏ hoặc các hình thức tan trong nước và hoạt động tốt nhất khi dùng cùng với B Complex, inositol, và vitamin C. Một yếu tố khác ảnh hưởng đến lượng vitamin E là lượng axit béo không bão hòa trong chế độ ăn. Khi tiêu thụ axit béo không bão hòa đa tăng, do đó, hiện các Vitamin E yêu cầu.
Lưu ý: Vitamin E thận trọng lượng đi kèm những người đã thyroids hoạt động quá mức, tiểu đường, huyết áp cao, hoặc sốt thấp khớp. Nó có thể nâng cao huyết áp ở hypertensives, nhưng có thể giảm huyết áp nếu liều bắt đầu nhỏ và đang từ từ tăng lên. Phương pháp này cũng đã được chứng minh hiệu quả với bệnh nhân tiểu đường để giảm lượng insulin của họ - nhưng phải được thực hiện với sự giám sát chuyên nghiệp. ửa hút lớn của Vitamin E (1200 mg hoặc nhiều hơn.) có thể cản trở sự trao đổi chất của vitamin K và, đến một mức độ nhất định, đó là Vitamin A hấp thụ và, do đó, nó được khuyến khích không quá 800 mg. 2 tuần trước khi hoặc sau khi phẫu thuật . Mặc dù vitamin E được coi là không độc hại, một đứa trẻ với sự thiếu hụt Vitamin K không nên dùng liều lớn vitamin vì nó có thể làm giảm đông máu bình thường và làm trầm trọng thêm bất kỳ rối loạn hiện tại. Người có tiền sử mắc bệnh tim thấp khớp có thể không thể chịu đựng hơn 150-200 IU vitamin E mỗi ngày.

Tóm tắt:
Tên bao gồm: Vitamin E, vitamin E1, yếu tố antisterility vitamin /, yếu tố X, Eprolin-S, Epsilan, Ephynal, Syntopherol, E-Vimin, Eviphero, Etavit, Phytogermine, Profecundin, Tokopharm, Viteolin, Escorb, Vacuals, Covitol, Envion .
Các hình thức bao gồm: alpha tocopherol, tocopherol beta, tocopherol đồng bằng, gamma tocopherol, alpha-tocopherol acetate, tocopheryl acetate tập trung-alpha, tocopheryl acid succinat-alpha, epsilon-tocopherol, zetal-toc, zeta2-tocopherol, eta-tocopherol, Vitamin E2 (50) / tocoquinone-10/tocopherylquinone.
Thiếu triệu chứng bao gồm: (các triệu chứng hồi phục, nếu liều lượng lớn được dừng lại đột ngột), thiếu máu, thoái hóa cơ, yếu cơ thể, cơ bắp đau, ngựa Charley, tiền gửi ceroid trong cơ bắp, thoái hóa tuyến nội tiết, vô sinh, suy thoái hệ thống mạch máu ngoại vi, suy giảm hệ thần kinh , đau thắt ngực, giảm thời gian tồn tại của các tế bào máu đỏ, vỡ hồng cầu, tăng creatinine trong nước tiểu, mụn trứng cá, tăng nhu cầu oxy, chữa bệnh chậm, vết sẹo / dấu hiệu căng ra vẫn còn, nhăn da, giảm ozone / bức xạ / ung thư kháng.

Các triệu chứng ngộ độc bao gồm: đau đầu, buồn nôn, chóng mặt, giảm tỷ lệ trao đổi chất cơ bản, mệt mỏi, yếu cơ, giảm nồng độ hormon tuyến giáp, tăng triglycerides máu ở phụ nữ, mỡ máu tăng nhẹ, mỏng máu, tăng huyết, giảm đường trong máu, mắt mờ, nứt nẻ môi, inflammed mồm long móng, sự suy giảm của tiêu hóa, giảm chức năng bộ phận sinh dục, và một khả năng giảm Provitamin A để chuyển đổi thành vitamin A.
Chất ức chế bao gồm: sulfate sắt, vitamin BP, nhiệt, O2, nhiệt độ đóng băng, chế biến thực phẩm, clo, dầu khoáng, thuốc nhuận tràng, estrogen, hormone tuyến giáp, và các viên thuốc tránh thai.

Người giúp đỡ bao gồm: Vitamin A, B Complex, B1, BH, C, F, mangan selen,, phốt pho.

Alpha-vitamin E là một hình thức cụ thể của Vitamin E, còn được gọi là tocopherol-alpha. hình thức của nó là: alpha-tocopherol, alpha-tocopherol acetate, acid alpha-tocopherol succinate. hình thức của nó là: alpha-tocopherol, alpha-tocopherol acetate, acid alpha-tocopherol succinate.

Alpha-Vitamin E acetate là một hình thức cụ thể của alpha-Vitamin E, cũng được gọi là: Vitamin E acetate, và alpha-tocopherol acetate.

Alpha-Vitamin E succinat acid là một dạng cụ thể của alpha-Vitamin E, còn được gọi là vitamin E succinat acid, acid tocopherol succinate-alpha, và-tocopherol acid d succinat.

Beta-Vitamin E là một hình thức cụ thể của Vitamin E, còn được gọi là beta-tocopherol, cumotocopherol, neotocopherol, và p xylotocopherol-.

Gamma-Vitamin E là một hình thức cụ thể của Vitamin E, còn được biết đến như là gamma tocopherol và xylotocopherol-o.

Delta-Vitamin E là một hình thức cụ thể của Vitamin E, còn được gọi là tocopherol-đồng bằng.

Epsilon-Vitamin E là một hình thức cụ thể của các vitamin, còn được gọi là tocopherol-epsilon.

Zeta 1-Vitamin E là một hình thức cụ thể của Vitamin E, còn được gọi là zeta 1-tocopheral.

Zeta 2-Vitamin E là một hình thức cụ thể của Vitamin E, còn được gọi là zeta tocopherol-2.

Eta-Vitamin E là một hình thức cụ thể của Vitamin E, còn được gọi là tocopherol-eta.

Vitamin E2 (50) là một hình thức cụ thể của Vitamin E, còn được gọi là Vitamin E2, tocoquinone, và quinone 10/tocopheryl.

http://translate.google.com.vn/translate?h...2%26prmd%3Divns
-------------------------------------------------

Go to the top of the page
 
+Quote Post
KinhThanh
bài Jan 28 2011, 08:32 AM
Bài viết #37


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Vitamine D là gì ?

Vitamine D không tan trong nước, nhưng tan trong dung môi hữu cơ, dầu, mỡ, alcool, ether và chloroform.
Một trong những đặc điểm của vitamine D cần được biết đến : nó không phải là một vitamine theo nghĩa đúng, bởi vì quá trình tổng hợp của da bảo đảm được phần lớn nhu cầu của tổ chức. Thực vậy, nếu ergocalciferol (vitamine D2) chỉ có thể đến từ thức ăn, thì tổ chức có khả năng tổng hợp vitmain D từ lớp đáy của thượng bì, từ cholesterol và dưới ảnh hưởng của tia cực tím.
Quá trình tổng hợp của da, và nguồn cung cấp chủ yếu vitamine D cho cơ thể và lệ thuộc vào nhiều yếu tố :
Sắc tố của da.
Vùng thượng bì, nơi quá trình tổng hợp được thực hiện.
Chiều dài của sóng và số lượng tia cực tím được nhận.
Nhiệt độ của da (quá trình chuyển đổi xảy ra thuận tiện ở nhiệt độ (36,50C đến 370C) và tạo điều kiện cho quá trình tổng hợp xảy ra nhanh.
Vitamine D có nguồn gốc bên trong sẽ được hấp thu trực tiếp bởi mạch máu. Ngược lại vitamine D có nguồn gốc bên ngoài, đầu tiên, được hấp thu trong ruột non kèm theo mỡ, sau đó được đưa vào tuần hoàn chung.

Vai trò của Vitamine D ?
Vitamine D chiếm một vị trí rất đặc biệt, dù cho nó có nguồn gốc bên trong từ quá trình tổng hợp của da hay nguồn gốc bên ngoài bởi nhu cầu thức ăn, vì vitamine D vẫn theo một lộ trình. Theo cách của các hormon steroid, vitamine D sẽ tác động bằng cách nối liền các bộ phận thụ cảm, thấm sâu vào nhân tế bào, khởi động cho các quá trình biểu hiện của một vài vitamine D đóng vai trò chủ đạo trong quá trình cốt hóa xương, bằng cách tăng khả năng hấp thu và cố định calci cùng phospho. Phạm vi hoạt động của chuyển hóa phosphocalci rất lớn nhưng trong đó vitamine D vẫn can dự đến tất cả các mức :
Trong ruột, vitamine D tạo điều kiện tăng hấp thu phosphocalci.
Trong xương, nó làm tăng số lượng calci được tiết ra trong máu.
Trong thận, nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hấp thu phospho.
Tất cả các hoạt động này đều nhằm vào mục đích dùng duy trì lượng phosphocalci có sẵn trong cơ thể để hóa xương, chỉ đại diện một phần vai trò sinh lý của vitamine D.
Thực vậy, nhiều mô chứa các bộ phận thụ cảm đối với vitamine này cũng tham gia vào :
Quá trình tập trung calci trong sữa và tuyến sữa.
Vận chuyển calci về phía phôi thai ở nhau thai.
Sự biệt hóa bạch cầu cần thiết cho nhu cầu đáp ứng miễn dịch.
Tổng hợp interferon, một tác nhân chống lại virus.
Quá trình phát triển của các tế bào da.
Hoạt động của cơ.
Hoạt động kiểm soát, tổng hợp Insulin trong tụy.
Nhiều bộ phận thụ cảm đối với chuyển hóa vitamine D cũng được thấy rõ trong một vài phần của não, nhưng vai trò này vẫn còn nghiên cứu.

Thức ăn nào cung cấp Vitamine D ?
Nguồn gốc bên trong :
Quá trình chuyển dạng các sterol ở da của người dưới tác dụng của tia cực tím mặt trời là nguồn gốc hàng đầu của vitamine D, đồng thời nó được cung cấp một cách bình thường phần lớn nhu cầu của tổ chức.
Đặc tính này rất khó đánh giá chính xác, nhưng thỏa mãn từ 50 đến 70% nhu cầu, tùy theo điều kiện khí hậu, địa lý và xã hội.
Quá trình tổng hợp không giống nhau, mà có thể thay đổi tùy theo tác nhân, chẳng hạn :
Tăng lên nếu chế độ ăn nghèo về calci và phospho.
Tổng hợp nhiều hơn ở trẻ em, nhất là trong thời kỳ tăng trưởng nhanh, và ở phụ nữ có thai vào lúc cuối thai kỳ. Ngược lại, nó giảm với tuổi già, ở người 80 tuổi sẽ ít hơn 3 lần so với 20 tuổi.
Người da trắng tăng cao hơn từ 50 đến 100 lần so với người da đen.
Khả năng tổng hợp có thể không đủ do thiếu tiếp xúc với mặt trời hoặc không đủ tia cực tím trong khí quyển, về chất lượng cũng như số lượng (độ cao quá cao, ô nhiễm khí quyển) không mặc áo quần quá kín. Nguy cơ thiếu có thể tồn tại và nhu cầu cung cấp dự phòng rất cần thiết để ngăn ngừa bệnh còi xương.
Nguồn gốc bên ngoài :
Vitamine D có rất ít trong thực phẩm tự nhiên, trừ một vài cá biển béo, nhất là gan của chúng (cá ngừ, cá hồi, cá trích, cá mòi, chình…)

Nhu cầu hàng ngày về Vitamine D là bao nhiêu ?
Nhu cầu được đánh giá là 10mcg (400 UI) trong ngày và liều được khuyên từ 20 đến 30 mg (800 đến 1200 IU) trong hai năm đầu tiên sau sinh và vào mùa đông cho đến 5 tuổi.
Ở phụ nữ có thai, vào cuối thai kỳ, người ta khuyên dùng liều từ 10 đến 20mg/ngày (400 đến 800 UI).

Thiếu Vitamine D biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Ở trẻ em : Còi xương xuất hiện trong hai năm đầu sau sinh. Đầu tiên, xương sọ sẽ bị ảnh hưởng nhất là vào tháng thứ 6 (mềm xương vùng chẩm, trán vồ). Từ tháng thứ 6 đến tháng thứ 12, xuất hiện các nốt ở xương sườn và những biến dạng lồng ngực.
Ở người trưởng thành : Tình trạng nhuyễn xương, mất khoáng của xương, thường xảy ra, nó biểu hiện bằng đau cơ và xương, tiến triển nhanh; vị trí đầu tiên là khung chậu và đau tăng lên khi bước đi, rồi sau đó cơn đau tiến đến lồng ngực và cột sống. Đặc biệt, nó còn đi kèm với đau cơ, làm cho bước đi trở nên khó khăn.
Vitamine D giữ vai trò ưu tiên trong điều hòa chuyển hóa calci và phospho. Thiếu vitamine D có thể dẫn đến thay đổi tỉ lệ calci và phospho trong máu. Khi calci trong máu tăng sẽ gây ra kích thích sản xuất hormon cận giáp phản ứng.
Bất thường xương sẽ ảnh hưởng làm tất cả cấu trúc của xương dài, đầu xương và thân xương, sớm hơn là phần nối giữa đầu xương và thân xương bị rộng ra. Thêm vào đó là các biến dạng của xương sườn và cột sống.

Những ai dễ bị thiếu Vitamine D ?
Trẻ bú mẹ và trẻ nhỏ (sữa mẹ nghèo vitamine D, sữa bò cũng vậy). Nhu cầu từ 25 đến 30 mg cho mỗi ngày (1000 đến 1200 UI) là liều được khuyên trong năm đầu tiên sau sinh. Từ tháng 3 năm 1992, sữa giàu vitamine D với hàm lượng đã được kiểm soát và cho phép sử dụng ở Pháp.
Thanh niên.
Phụ nữ có thai và cho con bú.
Người già, ở những người này quá trình tổng hợp bên trong chậm lại và giảm tỉ lệ calciferol trong tuần hoàn, thêm vào đó và tiếp xúc với mặt trời không đủ, thực phẩm giảm hay thiếu, đôi khi mất, nhu cầu tăng lên do kém hấp thu ở ruột.
Tất cả những người bị thiếu vitamine D gợi ý do kém hấp thu mạn tính (do cắt dạ dày, thiếu mật, bệnh lý tụy hay thận làm giảm quá trình tổng hợp)
Người uống rượu nhiều.
Người được điều trị bằng những thuốc có tương tác với chuyển hóa của vitamine D thuốc động kinh) hay khả năng hấp thu của nó (dầu paraffin, choletyramin).
Những người bị bất thường di truyền về chuyển hóa vitamine D.

Trường hợp nào nên dùng Vitamine D ?
Điều trị dự phòng cho :
Phụ nữ cuối thai kỳ hay cho con bú và trẻ em dưới hai tuổi.
Người lớn có chế độ ăn thiếu vitamine D hay thiếu ánh mặt trời.
Phụ nữ lúc mãn kinh trở đi và những người đàn ông từ 65 tuổi trở đi (loãng xương, đưa đến xương bị yếu, dễ bị gãy cổ xương đùi, cung cấp thêm vitamine D và calci làm giảm 30% số người bị gãy xương, nhất là các phụ nữ lớn tuổi).
Người có quá trình chuyển hóa bị rối loạn, hoặc do di truyền và hấp thu thuốc.
Điều trị chữa lành :
Vitamine D được sử dụng trong những trường hợp còi xương và nhuyễn xương. Dù cho mọi nguyên nhân (thiếu máu, kém hấp thu, điều trị thuốc hay còi xương đề kháng vitamine) thì. Nguyên tắc chung là tránh kê đơn với liều cao, vì nó không chữa lành bệnh nhanh mà lại gây ngộ độc.
Để cung cấp thêm vitamine D một cách có ích, tốt nhất và chắc chắn hơn cho người lành, thì nên cung cấp một cách tự nhiên : tiếp xúc với mặt trời ở mặt và bàn tay trong ¼ giờ mỗi ngày, khi đó đảm bảo được quá trình tổng hợp bên trong xảy ra nhanh. Mặc khác, do quá trình tổng hợp này giảm ở người già nên nhu cầu cung cấp thêm thật cần thiết cho họ, cũng như ở trẻ em.
Một êkip người Anh cho thấy rằng, trong một vài trường hợp, vitamine D có thể giúp chống ung thư vú, và một số công trình khác gợi ý rằng, nó có thể được sử dụng trong điều trị một vài bệnh ung thư máu.
Cuối cùng, một dẫn xuất của vitamine D được dùng trên da dường như ngày nay là một biện pháp điều trị tốt đối với bệnh vảy nến.

Dùng Vitamine D thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ?
Dùng với liều cao vitamine D có thể gây ra các phản ứng trầm trọng : chán ăn, buồn nôn, mất cân, đi tiểu tăng lên, mất nước, tăng huyết áp. Những tác dụng này chỉ xuất hiện với liều rất cao (25 đến 27 mg/ngày cho 1kg trọng lượng) và dùng trong nhiều tuần.
Nếu ngộ độc xảy ra, sẽ có sự calci hóa mô : Muốn calci được lắng đọng ở thận, mạch máu, tim, phổi.
Dùng liều cao lúc có thai có thể gây sống thai hay tăng calci máu ở trẻ bú mẹ (chậm phát triển về tâm thần vận động, bất thường về tim mạch). Nguy cơ này đã khiến các nhà nhi khoa và dinh dưỡng giảm liều được khuyên trong những năm 50.
Cuối cùng, vitamine D và những dẫn xuất của chúng hoàn toàn chống chỉ định cho các trường hợp calci máu, calci niệu hay sỏi calci.
-----------------------------------
Tại sao tôi cần vitamin K ?
Vitamin K giúp cho quá trình đông máu.

Tôi có thể tìm thấy vitamin K ở đâu?
Vitamin K có 2 dạng. Một trong 2 dạng đó có thể tìm được ở:

* Rau lá xanh
* Dầu thực vật
* Bơ thực vật
* Gan
* 1 số loại phó mát

Các vi khuẩn trong đường ruột sản xuất ra dạng còn lại.

Nhu cầu Vitamin K?

Tuổi-------------Vitamin K (mcg/ngày)Lượng khuyên dùng
0-6 tháng-------5
7-12 tháng-----10
1-3 năm--------15
4-6 năm--------20
7-9 năm--------25
10-18 năm-----35-55
Phụ nữ----------55
Nam giới--------65

Quá ít vitamin K
Tình trạng thiếu hụt vitamin K không xảy ra ở người lớn. Trẻ sơ sinh có tình trạng thiếu vitamin K vì sự vận chuyển vitamin K qua nhau thai còn yếu. Ở hầu hết các quốc gia, trẻ sơ sinh được cung cấp 1 nguồn bổ sung vitamin K (1mg) ngay sau khi sinh để tránh tình trạng chảy máu trong vài tháng đầu đời.Triệu chứng thiếu hụt vitamin K là xu hướng bị chảy máu cao hơn.

Quá nhiều vitamin K
Không có bằng chứng nào về sự ngộ độc vitamin K khi dùng với liều lượng cao.

-----------------------------------

Cholesterol rất cần cho sự hoạt động của màng tế bào sợi thần kinh cũng như việc sản xuất một số hoóc môn trong cơ thể. Tuy nhiên, việc có quá nhiều cholesterol trong máu lại gây xơ vữa động mạch và có thể gây tai biến chết người.

Cholesterol được lấy từ 2 nguồn: cơ thể tự sản xuất ra và thức ăn chứa cholesterol. Trong cơ thể, cholesterol được sản xuất chủ yếu ở gan (80%); còn trong thức ăn, nó có nhiều ở thịt, sữa, lòng đỏ trứng, phủ tạng động vật (tim, gan, bầu dục) và gia cầm. Ở người bình thường, hàm lượng cholesterol máu luôn hằng định, chỉ khi nó tăng quá cao mới gây tăng cholesterol máu mà dân gian gọi nôm na là “tăng mỡ máu”.

Cholesterol không hòa tan trong máu. Do đó khi lưu thông, nó phải được bao quanh bằng một lớp áo protein, còn gọi là lipoprotein, gồm 2 loại lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) và lipoprotein tỷ trọng cao (HDL). LDL chuyên chở hầu hết cholesterol của cơ thể và nếu có nhiều trong máu, thành động mạch sẽ bị đóng mỡ và xơ vữa; vì vậy nó được gọi là cholesterol “xấu”. Ngược lại, HDL lấy cholesterol ra khỏi máu và ngăn chúng thâm nhập thành động mạch, được gọi là cholesterol “tốt”.

Khi cholesterol máu cao, lượng cholesterol dư thừa sẽ đóng trên thành các động mạch mang máu đến nuôi tim. Chúng sẽ tạo thành những mảng bám trên thành động mạch và làm cho động mạch cứng lại, hay còn gọi là “xơ vữa động mạch”, hiện tượng này gây hẹp mạch máu và làm hàm lượng máu đến nuôi tim bị giảm hay tắc nghẽn hoàn toàn. Khi thiếu máu nuôi, tim sẽ bị thiếu oxy, từ đó gây nên “Cơn đau thắt ngực” hay “nhồi máu cơ tim” có thể dẫn đến tử vong. Cholesterol cao là nguyên nhân chủ yếu của bệnh tim mạch, tình trạngï xơ mỡ động mạch xảy ra một cách từ từ nên bệnh nhân có thể không hay biết gì.

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cholesterol:

Khẩu phần: Ăn nhiều chất béo no hay quá nhiều năng lượng sẽ làm tăng LDL và cholesterol toàn phần, gây xơ mỡ động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não...

Tăng cân quá mức: Chỉ số khối cơ thể BMI được khuyến cáo nên trong khoảng 18,5 - 22,9. Từ 23 trở lên là dư cân.

Thiếu vận động cơ thể: Nếu tăng hoạt động cơ thể sẽ làm tăng HDL và làm giảm LDL.

Di truyền: Một số gene trong gia đình có thể chi phối cách tiêu thụ và xử lý cholesterol.

Tuổi và giới: Cholesterol máu ở cả 2 giới bắt đầu tăng ở tuổi 20. Phụ nữ trước tuổi mãn kinh thường có mức cholesterol thấp hơn nam giới cùng tuổi. Sau mãn kinh, nồng độ LDL tăng và nguy cơ tim mạch cũng tăng theo.

Hút thuốc lá: Sẽ làm giảm HDL.

Từ sau tuổi 20, bạn nên kiểm tra mỡ máu 5 năm 1 lần. Sau tuổi 50, định kỳ này nên rút ngắn: mỗi năm 1 lần. Dựa vào kết quả, bạn sẽ điều chỉnh chế độ ăn, hoạt động thể lực và nếu cần thì điều trị bằng thuốc đặc hiệu.

Cholesterol, hoạt chất hay độc chất?


Trước hết, cholesterol là sản phẩm của quy trình biến dưỡng. Nói cách khác, có nhịn ăn cũng không tránh được cholesterol. Chất này không được hấp thu vào máu một cách trực tiếp và tự động từ món ăn có dầu mỡ như nhiều người đang hiểu lầm, và vì thế chớ tin ngay vào quảng cáo của các loại thực phẩm "không có cholesterol". 90% lượng cholesterol trong máu là do gan tổng hợp. Lá gan ắt hẳn phải có lý do chính đáng khi miệt mài làm tròn chức năng đó, bởi trên thực tế cholesterol là thành phần cơ bản của nhiều cấu trúc quan trọng trong cơ thể, từ nội tiết tố đến tế bào thần kinh. Do đó, đừng vội mừng khi thiếu cholesterol! Nhiều công trình nghiên cứu đã xác minh vai trò tối cần thiết của cholesterol. Thiếu cholesterol sẽ dẫn đến nhiều bệnh lý nghiêm trọng không thua gì thừa cholesterol!

Ngược lại, tình trạng tăng cholesterol là dấu hiệu cho thấy lá gan có trục trặc trong khâu nào đó. Nhưng cholesterol không đơn phương dẫn đến xơ vữa động mạch, cao huyết áp hay tắc mạch máu như đang bị đổ tội. Nó chỉ trở thành mối đe dọa cho cơ thể khi hội đủ nhiều điều kiện bệnh lý. Chỉ dựa vào cholesterol để vội vàng kết luận tình trạng rối loạn biến dưỡng chất béo là không chính xác. Nếu mạch máu vẫn dẻo dai, dòng máu đừng quá đậm đặc, nếu sức đề kháng đừng bị xói mòn vì stress, rượu bia, ma túy, độc chất của môi trường ô nhiễm... thì cholesterol, cho dù có tăng cao, cũng không thể gây bệnh.

Thay đổi lối sống

Nếu mức độ cholesterol xấu (LDL) cao, điều đầu tiên các bác sĩ thường khuyên là thay đổi lối sống:

- Ăn nhiều đồ ăn dễ tiêu, ít chất béo bão hoà và cholesterol có thể cải thiện mức độ cholesterol.

- Thừa cân và lười hoạt động sẽ tạo ra nhiều cholesterol xấu và làm giảm cholesterol có lợi, chính xác là tạo ra những điều ngược lại mong muốn.

Tập thể dục và giảm cân có thể giúp đảo ngược lại tình thế. Đặc biệt cần thiết với những nam giới có vòng eo lớn hớn 100cm và hơn 88cm đối với phụ nữ vì những người này rất dễ mắc bệnh tim mạch.

Khi những thay đổi trong sinh hoạt hằng ngày không đủ để đưa mức độ cholesterol xuống mức tiêu chuẩn, bác sĩ có thể kê đơn thuốc làm giảm cholesterol của bạn xuống. Tuy nhiên, thuốc không thể thay thế cho việc thay đổi lối sống của bạn. Vì vậy hãy kiên trì với chế độ ăn uống thích hợp điều độ và năng tập thể dục.

Phòng ngừa suốt đời

Bệnh tim mạch được coi là sát thủ số một và người ta vẫn nghĩ cholesterol như là tội đồ. Bác sĩ Nguyễn Huân, Trung tâm Dinh dưỡng, cho rằng thực ra cholesterol có vai trò rất quan trọng đối với đời sống của con người. Không có cholesterol, cơ thể không tồn tại nhưng nếu mức cholesterol quá cao cũng có thể là con đường dẫn đến thần chết. Theo tính toán, nếu giảm lượng cholesterol trong khẩu phần ăn hằng ngày đi 1% sẽ giảm được 2% nguy cơ mắc bệnh mạch vành. Việc phòng ngừa tăng cholesterol phải được bắt đầu ngay từ lúc còn trẻ, cho đến suốt đời và không lúc nào được coi là muộn cả. Để đạt được điều này, nên hạn chế sử dụng các loại thịt, cá xuống còn 150 g hay 200 g mỗi ngày, cần chọn cho mình những thức ăn có hàm lượng mỡ và cholesterol thấp. Khi chế biến món ăn, thay vì chiên thì nên luộc, hấp hoặc nướng. Không ăn da, đầu, cổ, cánh của các loại gia cầm như: gà, ngan, vịt. Hạn chế ăn lưỡi, tim, gan... lợn. Dùng dầu thực vật để chế biến thức ăn, nhưng cũng phải hạn chế. Nên chọn loại sữa gầy hoặc sữa ít béo. Rau quả thì ăn không giới hạn nếu bạn không xào hoặc trộn với dầu. Hiện nay, có bằng chứng cho thấy chất xơ hòa tan trong đậu, cùi trái cây,... có tác dụng làm giảm cholesterol trong máu.

Xét nghiệm thường xuyên và tập thể dục đều đặn

Người lớn từ 40 tuổi trở lên nên xét nghiệm cholesterol máu ít nhất 3 năm 1 lần. Nếu có thêm các yếu tố nguy cơ làm tăng đường và cholesterol máu như: hút thuốc, thừa cân, nam trên 45 tuổi hoặc nữ trên 55 tuổi, có tiền sử gia đình bị bệnh tim mạch hoặc tiểu đường thì tốt nhất nên xét nghiệm từ tuổi 30 và xét nghiệm thường xuyên hơn.

Tập thể dục, vận động thường xuyên sẽ giúp giảm cholesterol. Chỉ hoạt động thể lực 30 phút mỗi ngày từ 5-7 ngày một tuần sẽ có ích rất nhiều. Nếu đi bộ nhanh, chạy việt dã, bơi, đạp xe đạp, đặc biệt là đi bộ nhanh 5-7 buổi/tuần, mỗi buổi 40-60 phút hay chạy việt dã 2-3 buổi/tuần, mỗi buổi 20-40 phút có tác dụng tốt đối với việc điều hòa lượng cholesterol máu sau 3-6 tháng tập luyện.

5 điều cần biết về chất mỡ trong máu

1) Tăng cholesterol trong máu không đồng nghĩa với tình trạng bệnh lý. Bằng chứng là người Eskimo có lượng cholesterol trong máu cao gấp 4 - 5 bình thường nhưng họ rất ít khi bị nhồi máu cơ tim. Ngược lại, thống kê tại nhiều nước cho thấy không ít nạn nhân của tai biến mạch máu não, thuyên tắc mạch vành... lại có lượng cholesterol bình thường!

2) Bên cạnh cholesterol, cơ thể cũng tổng hợp nhiều loại chất béo khác. Chính tỷ lệ tương quan giữa các chất này mới là yếu tố gây ra xơ vữa mạch máu. Chỉ dựa vào kết quả xét nghiệm cholesterol rồi vội vàng dùng thuốc là điều sai lầm.

3) Triglyceride là loại chất béo được sản xuất như nguồn dự trữ năng lượng để đối phó với nhu cầu cấp bách. Mục tiêu thì tốt nhưng khi đưa vào ứng dụng lại dễ gặp trục trặc. Một khi tăng cao, chẳng hạn do thói quen ăn nhiều mỡ, hay trên người có bệnh gan, bệnh tiểu đường, bệnh tuyến giáp..., triglyceride sẽ quay về tấn công lá gan và kéo theo rối loạn biến dưỡng. Không quá khó để giảm cholesterol nhưng không dễ gì "hạ" được triglyceride một khi chất này đã tăng cao.

4) LDL (low density lipid) mới là loại chất béo độc hại vì chúng trôi theo dòng máu, gặp nơi nào thuận tiện thì bám chặt vào đó. Mạch máu mất tính đàn hồi là vì LDL. Xác suất tai biến mạch máu não tỷ lệ thuận với hàm lượng LDL trong máu. Kiêng cữ hay dùng thuốc có thể giảm được cholesterol, nhưng nếu không ảnh hưởng trên LDL thì đúng là "tiền mất tật mang".

5) Ngược lại, tuy cũng có cấu trúc chất béo nhưng HDL (high density lipid) là loại có ích nhờ có nhiệm vụ truy tìm và kết dính với độc chất trong máu rồi dẫn về gan để tái biến dưỡng. Điều bất lợi là quy trình tổng hợp chất béo này không có tính ưu tiên. Triglyceride và LDL trong máu càng nhiều thì HDL càng ít. Người có lượng HDL càng thấp thì nguy cơ nhồi máu cơ tim càng cao. Thuốc hóa chất tổng hợp làm tăng HDL hãy còn rất hiếm, nhưng hoạt chất thiên nhiên trong cây thuốc, rau quả thì lại không thiếu.

Những loại thực phẩm nên và không nên ăn uống để bình ổn lượng cholesterol trong máu:

1. Những loại thực phẩm nên dùng

Đây là những loại thực phẩm vừa ngon miệng vừa có khả năng giúp giảm cholesterol LDL hoặc tăng cholesterol HDL.

- Cá: Cá có chứa nhiều axit béo omega-3 vốn được xem là loại axít béo có lợi cho tim mạch, nhất là các loại cá giàu mỡ lành tính như cá hồi, cá ba sa, cá hú, cá ngừ… Có thể dùng thêm thuốc bổ sung dầu cá hoặc quả hạch.

- Dầu ôliu: Loại dầu này chứa nhiều hoạt chất có lợi cho sức khỏe, giúp giảm lượng cholesterol LDL và ngăn chặn nhiều căn bệnh nguy hiểm về tim mạch và ung thư. Tương tự, dùng quả hạnh nhân mỗi ngày cũng được xem là một trong những cách giúp giảm cholesterol LDL khá hiệu quả.

- Đậu nành: Tất cả các món ăn làm từ đậu nành đều tốt cho sức khỏe vì chúng không chỉ giúp ngăn cản quá trình sản sinh cholesterol trong cơ thể, mà còn giúp hạ thấp nguy cơ mắc phải nhiều căn bệnh nguy hiểm khác.

- Bơ thực vật: Bơ thực vật thường không hoặc chứa rất ít cholesterol, mà chứa nhiều chất béo lành tính, giúp giảm cholesterol LDL. Tuy nhiên, cũng nên thận trọng vì không phải bất cứ loại bơ thực vật nào cũng tốt. Những loại càng đặc thì càng có nhiều chất béo đã qua chuyển hóa. Do đó, nếu thích dùng bơ, bạn nên chọn những loại hơi lỏng thay vì những loại được đóng gói dưới dạng thanh, miếng.

- Ngũ cốc nguyên chất và yến mạch: Do chứa nhiều chất xơ hòa tan nên hai loại thực phẩm này có khả năng giúp giảm cholesterol LDL khá hiệu quả.

2. Những loại thực phẩm không nên

Đây là những loại thực phẩm có tác hại vừa làm tăng cholesterol LDL, vừa góp phần đẩy cao nguy cơ mắc phải nhiều căn bệnh nguy hiểm khác.

- Thịt đã qua chế biến: Các loại như thịt muối, hun khói, xúc xích, thịt hộp… tuy ngon miệng nhưng lại chứa nhiều chất béo bão hòa, không tan trong máu nên sẽ tích tụ lại, gây nghẽn mạch máu và tăng cholesterol LDL.

- Sữa nguyên kem giàu đường và chất béo: Đây cũng là loại thực phẩm có chứa nhiều chất béo bão hòa. Nếu không thể không dùng sữa, bạn nên chọn loại có ít chất béo và sữa chua.

- Thức ăn nhanh: Các loại thức ăn nhanh đều có chứa nhiều chất béo bão hòa và chất béo chuyển hóa. Tác hại của chất béo chuyển hóa nhiều khi còn tệ hơn chất béo bão hòa vì vừa làm tăng mức LDL, vừa làm giảm mức HDL.

- Dầu dừa: Vốn là loại dầu giàu chất béo bão hòa nhất, loại dầu này cần hạn chế trong chế biến thức ăn, thay vào đó là các loại dầu thực vật khác như dầu mè, đậu tương, ôliu …

- Lòng đỏ trứng: Lòng đỏ trứng có chứa khá nhiều cholesterol (khoảng 213mg/quả trứng). Người khỏe mạnh mỗi ngày không nên hấp thu quá 300mg cholesterol. Do đó nếu đã dùng một quả trứng trong ngày rồi thì bạn nên hạn chế những món ăn giàu cholesterol khác. Khác với tròng đỏ, tròng trắng trứng không có chứa cholesterol.

Tỏi:
Một số thí nghiệm đã cho thấy tỏi có tác dụng hạn chế mức độ cholesterol nhưng các kết quả này chưa được kiểm chứng rộng rãi. Tuy vậy tỏi còn có một số tác dụng tốt khác đối với sức khoẻ, lại có sẵn nên bạn có thể bổ sung chúng vào bữa ăn hàng ngày.

Nghệ: Theo một số nghiên cứu mới được công bố, nghệ có khả năng giảm cholesterol xấu trong ruột, tăng cường chuyển hoá chúng thành các loại axit trong mật và tăng bài tiết các loại axit mật. Trong nghệ có nhiều thành phần chất chống viêm và chống ôxy hoá, tác dụng ngăn ngừa quá trình ôxy hoá cholesterol LDL thành một dạng nguy hiểm hơn (có thể phong tỏa động mạch). Ngoài ra, một số chuyên gia cũng cho rằng nghệ còn ngăn ngừa được nguy cơ mắc bệnh Alzheimer.

Beta-sitosterol là một loại sterol thực vật có khả năng phong toả quá trình hấp thu cholesterol. Hoạt chất này có trong hầu hết các loại rau quả như đậu nành, cám gạo, mầm lúa mỳ. Beta-sitosterol cũng được sử dụng để giảm các triệu chứng trương nở tuyến tiền liệt lành tính. Ngoài beta-sitosterol, benecol là một loại bơ thực vật (margarine) cũng có tác dụng tương tự đối với cholesterol.

Đối với trẻ, nhiều bậc phụ huynh thậm chí không hề nghĩ đến cholesterol. Nhưng nồng độ cholesterol cao được cho là nguyên nhân chính góp phần gây bệnh tim và đột quỵ, và các nghiên cứu y học gần đây nhất cho thấy nó cũng là nguồn gốc của bệnh động mạch vành ở trẻ.

Nồng độ cholesterol ở trẻ đã không được chú ý cho đến thời gian gần đây, và theo một số chuyên gia, nồng độ cholesterol cao ở trẻ là một vấn đề sức khoẻ lớn chưa được ghi nhận đúng mức. Trong vài năm qua, có nhiều nghiên cứu cho thấy có sự gia tăng đáng kể bệnh béo phì ở trẻ và vấn đề này là kết quả của việc thừa cân. Một số bác sĩ khoa nhi đã ghi nhận sự tăng đáng kể số trẻ có nồng độ cholesterol cao hơn so với chính chúng ở vài năm trước.

Việc lưu ý đến nồng độ cholesterol ở trẻ khá quan trọng, đặc biệt là ở những trẻ có bố mẹ có nồng độ cholesterol cao.

Cholesterol là gì?

Cholesterol là chất do gan sinh ra. Nó là một trong số các lipid, hay còn gọi là chất béo mà cơ thể sinh ra và được dùng vào việc tổ chức thành tế bào và hình thành một số mô và hormone. Nếu bạn không bao giờ ăn những món như kem hoặc thịt băm có phó mát, cơ thể bạn sẽ có đủ cholesterol để vận hành trôi chảy. Đó là vì gan của bạn tạo ra đủ cholesterol cho hoạt động cơ thể khoẻ mạnh. Trên thực tế, gan sản sinh ra khoảng 1.000 milligram cholesterol/1 ngày. Một phần đến từ các thực phẩm mà bạn đã ăn.

Rau cải, trái cây và gạo không có cholesterol, nhưng những thực phẩm dưới đây lại chứa nhiều chất này: lòng đỏ trứng, thịt, thịt gia cầm, hải sản, các sản phẩm bơ sữa nguyên chất (gồm sữa, phó mát và kem).

Cholesterol hoạt động thế nào?


Cholesterol không tự mình đi khắp cơ thể. Nó phải kết hợp với các protein để đi qua dòng máu đến nơi cần đến. Sự kết hợp di chuyển của cholesterol và protein được gọi là lipoproteins. Hai loại lipoprotein: lipoprotein mật độ thấp (LDL) và lipoprotein mật độ cao (HDL), là hai thành phần quan trọng nhất và được con người nhắc đến nhiều nhất.

Trong đó, LDL còn được gọi là “cholesterol có hại”, là cholesterol nguyên thuỷ. Nếu có quá nhiều LDL trong máu, nó có thể bịt kín thành động mạch dẫn tới tim và não, tạo thành các mảng khiến cho mạch máu đặc lại, hẹp hơn hoặc bị nghẽn mà người ta gọi là chứng xơ vữa động mạch, có thể dẫn tới bệnh tim hay đột quỵ. Chứng bệnh này cũng có thể làm giảm lượng máu đến các cơ quan quan trọng khác, bao gồm thận và ruột.

HDL còn được gọi là “cholesterol có ích”, chiếm 1/4 đến 1/3 lượng cholesterol của cơ thể. HDL mang cholesterol đi từ động mạch và trở về gan, nơi nó sẽ được xử lý và thải ra khỏi cơ thể.

Nồng độ LDL cao làm tăng nguy cơ bệnh tim và đột quỵ, nhưng HDL cao có thể bù lại nguy cơ này và giúp bảo vệ hệ tuần hoàn.

Cholesterol và trẻ

Ba nguyên nhân chính góp phần làm nồng độ cholesterol cao:

- Chế độ ăn: chế độ ăn nhiều chất béo, đặc biệt là chất béo bão hoà, thường có trong các món nướng và các sản phẩm thức ăn nhanh được thương mại hoá.

- Di truyền: do bố hoặc mẹ hoặc cả hai có nồng độ cholesterol cao.

- Béo phì: liên quan đến cả chế độ ăn uống và thiếu vận động.

Các nhân tố có nguy cơ khác đối với bệnh động mạch vành bao gồm huyết áp cao, thuốc lá và mellitus bệnh tiểu đường.

Nếu trẻ năng vận động, ăn uống lành mạnh, gia đình không có người có cholesterol cao và trẻ không thừa cân, bạn không cần phải lo ngại về vấn đề cholesterol ở trẻ.

----------------------------------------------
Phytosterol (Phytosterols):
Phytosterol là các sterol có nguồn gốc thực vật, có nhiều trong các loại hạt như hạt đậu tương hoặc là phụ phẩm của công nghiệp sản xuất giấy, mía đường.
Có hơn 100 sterol thực vật, nhưng chủ yếu chỉ dùng sitosterol, stigmasterol, campesterol.
Có thể dùng dạng các sterol tự do hay dạng ester của chúng để sản xuất thực phẩm chức năng.
Nguồn nguyên liệu để sản xuất phytosterol là đậu tương, phụ phẩm bột giấy.
Do các phytosterol có cấu tạo hóa học gần giống cholesterol, nên khi uống liều cao phytosterol vào cơ thể có sự tranh chấp với cholesterol trong chuỗi các phản ứng sinh học và với số lượng áp đảo, các phytosterol sẽ chiếm chỗ của cholesterol trong quá trình sinh tổng hợp . Kết quả làm giảm LDL cholesterol huyết tương, làm giảm hàm lượng cholesterol và lipid trong máu, dùng hỗ trợ điều trị một số bệnh tim mạch.

Cách dùng: người lớn ngày uống 1-1,2 g phytosterol.

http://vads.org.vn/vi-VN/muctuattp/59/93/Default.aspx
------------------------------------------------------------------
Go to the top of the page
 
+Quote Post
KinhThanh
bài Jan 29 2011, 07:21 AM
Bài viết #38


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Ớt, ngọt, màu xanh lá cây, nguyên Peppers, sweet, green, raw = 100g
Nước_____________________g 93.98
Energy, năng lượng_______kcal 20
Protein____________________g 0.86
Total lipid (fat )______________g 0.17
Fiber, total dietary___________g 1.7
Sugars, total_______________g 2.40
Calcium, Ca______________mg 10
Iron, Fe__________________mg 0.34
Magnesium,Mg____________mg 10
Phosphorus, P____________mg 20
Potassium, K_____________mg 175
Sodium, Na_______________mg 3
Zinc , Zn_________________mg 0.13
Copper ,Cu_______________mg 0.066
Manganese,Mn____________mg 0.122
Fluoride, F_______________mcg 2.0
Vitamin C, total ascorbic acid_mg 80.4
Thiamin ,B-1______________mg 0.057
Riboflavin, B-2_____________mg 0.028
Niacin ,PP;B-3____________mg 0.480
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.099
Vitamin B-6_______________mg 0.224
Folate, total B-9__________mcg 10
Folate, food B-9__________mcg 10
Folate, DFE B-9__________mcg 10
Choline, total______________mg 5.5
Vitamin A, RAE__________mcg 18
Carotene, beta___________mcg 208
Carotene, alpha__________mcg 21
Cryptoxanthin, beta_______mcg 7
Vitamin A_________________IU 370
Lutein + zeaxanthin_______mcg 341
Vitamin E (alpha-tocopherol)_mg 0.37
Vitamin K _______________mcg 7.4
Phytosterols______________mg 9

Ớt, ngọt, màu đỏ, nguyên = Peppers, sweet, red, raw = 100g
Nước_____________________g 92.21
Energy, năng lượng_______kcal 31
Protein____________________g 0.99
Total lipid (fat )______________g 0.30
Fiber, Chất xơ______________g 2.1
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 4.20
Calcium, Ca______________mg 7
Iron, Fe__________________mg 0.43
Magnesium,Mg____________mg 12
Phosphorus, P____________mg 26
Potassium, K_____________mg 211
Sodium, Na_______________mg 4
Zinc , Zn_________________mg 0.25
Copper ,Cu_______________mg 0.017
Manganese,Mn____________mg 0.112
Selenium _______________mcg 0.1
Vitamin C________________mg 127.7
Thiamin ,B-1______________mg 0.054
Riboflavin, B-2_____________mg 0.085
Niacin ,PP;B-3____________mg 0.979
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.317
Vitamin B-6_______________mg 0.291
Folate, total B-9__________mcg 46
Folate, food B-9__________mcg 46
Folate, DFE B-9__________mcg 46
Choline, total______________mg 5.6
Betaine___________________mg 0.1
Vitamin A, RAE__________mcg 157
Carotene, beta____________mcg 1624
Carotene, alpha___________mcg 20
Cryptoxanthin, beta________mcg 490
Vitamin A__________________IU 3131
Lutein + zeaxanthin________mcg 51
Vitamin E (alpha-tocopherol)_mg 1.58
Tocopherol, beta___________mg 0.05
Tocopherol,gamma_________mg 0.14
Vitamin K _______________mcg 4.9

Ớt, ngọt, màu vàng, nguyên = Peppers, sweet, yellow, raw = 100g
Nước_____________________g 92.02
Energy, năng lượng_______kcal 27
Protein____________________g 1.00
Total lipid (fat )______________g 0.21
Fiber, Chất xơ______________g 0.9
Calcium, Ca______________mg 11
Iron, Fe__________________mg 0.46
Magnesium,Mg____________mg 12
Phosphorus, P____________mg 24
Potassium, K_____________mg 212
Sodium, Na_______________mg 2
Zinc , Zn_________________mg 0.17
Copper ,Cu_______________mg 0.107
Manganese,Mn____________mg 0.107
Selenium _______________mcg 0.3
Vitamin C________________mg 183.5
Thiamin ,B-1______________mg 0.028
Riboflavin, B-2_____________mg 0.025
Niacin ,PP;B-3____________mg 0.890
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.168
Vitamin B-6_______________mg 0.168
Folate, total B-9__________mcg 26
Folate, food B-9__________mcg 26
Folate, DFE B-9__________mcg 26
Vitamin A, RAE__________mcg 10
Carotene, beta___________mcg 120
Vitamin A_________________IU 200
Go to the top of the page
 
+Quote Post
KinhThanh
bài Jan 29 2011, 06:41 PM
Bài viết #39


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Đậu phộng, tất cả các loại, nguyên = Peanuts, all types, raw = 100g
Nước_____________________g 6.50
Energy, năng lượng_______kcal 567
Protein____________________g 25.80
Total lipid (fat )______________g 49.24
Fiber, Chất xơ______________g 8.5
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 3.97
Calcium, Ca______________mg 92
Iron, Fe__________________mg 4.58
Magnesium,Mg____________mg 168
Phosphorus, P____________mg 376
Potassium, K_____________mg 705
Sodium, Na_______________mg 18
Zinc , Zn_________________mg 3.27
Copper ,Cu_______________mg 1.144
Manganese,Mn____________mg 1.934
Selenium _______________mcg 7.2
Thiamin ,B-1______________mg 0.640
Riboflavin, B-2_____________mg 0.135
Niacin ,PP;B-3____________mg 12.066
Pantothenic acid,B-5_______mg 1.767
Vitamin B-6_______________mg 0.348
Folate, total B-9__________mcg 240
Folate, food B-9__________mcg 240
Folate, DFE B-9__________mcg 240
Choline, total______________mg 52.5
Betaine__________________mg 0.6
Vitamin E (alpha-tocopherol)_mg 8.33
Phytosterols______________mg 220

Đậu phộng, Tây Ban Nha, nguyên = Peanuts, spanish, raw = 100g
Nước_____________________g 6.39
Energy, năng lượng_______kcal 570
Protein____________________g 26.15
Total lipid (fat )______________g 49.60
Fiber, Chất xơ______________g 9.5
Calcium, Ca______________mg 106
Iron, Fe__________________mg 3.91
Magnesium,Mg____________mg 188
Phosphorus, P____________mg 388
Potassium, K_____________mg 744
Sodium, Na_______________mg 22
Zinc , Zn_________________mg 2.12
Copper ,Cu_______________mg 0.900
Manganese,Mn____________mg 2.640
Selenium _______________mcg 7.2
Thiamin ,B-1______________mg 0.675
Riboflavin, B-2_____________mg 0.135
Niacin ,PP;B-3____________mg 15.925
Pantothenic acid,B-5_______mg 1.769
Vitamin B-6_______________mg 0.348
Folate, total B-9__________mcg 240
Folate, food B-9__________mcg 240
Folate, DFE B-9__________mcg 240

Đậu phộng, Valencia, nguyên = Peanuts, valencia, raw = 100g

Nước_____________________g 4.26
Energy, năng lượng_______kcal 570
Protein____________________g 25.09
Total lipid (fat )______________g 47.58
Fiber, Chất xơ______________g 8.7
Calcium, Ca______________mg 62
Iron, Fe__________________mg 2.09
Magnesium,Mg____________mg 184
Phosphorus, P____________mg 336
Potassium, K_____________mg 332
Sodium, Na_______________mg 1
Zinc , Zn_________________mg 3.34
Copper ,Cu_______________mg 1.171
Manganese,Mn____________mg 1.980
Selenium _______________mcg 7.3
Thiamin ,B-1______________mg 0.639
Riboflavin, B-2_____________mg 0.300
Niacin ,PP;B-3____________mg 12.875
Pantothenic acid,B-5_______mg 1.809
Vitamin B-6_______________mg 0.340
Folate, total B-9__________mcg 246
Folate, food B-9__________mcg 246
Folate, DFE B-9__________mcg 246

Đậu phộng, virginia, nguyên = Peanuts, virginia, raw = 100g
Nước_____________________g 6.91
Energy, năng lượng_______kcal 563
Protein____________________g 25.19
Total lipid (fat )______________g 48.75
Fiber, Chất xơ______________g 8.5
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 3.95
Calcium, Ca______________mg 89
Iron, Fe__________________mg 2.55
Magnesium,Mg____________mg 171
Phosphorus, P____________mg 380
Potassium, K_____________mg 690
Sodium, Na_______________mg 10
Zinc , Zn_________________mg 4.43
Copper ,Cu_______________mg 1.112
Manganese,Mn____________mg 1.696
Selenium _______________mcg 7.1
Thiamin ,B-1______________mg 0.653
Riboflavin, B-2_____________mg 0.131
Niacin ,PP;B-3____________mg 12.375
Pantothenic acid,B-5_______mg 1.759
Vitamin B-6_______________mg 0.346
Folate, total B-9__________mcg 239
Folate, food B-9__________mcg 239
Folate, DFE B-9__________mcg 239
Vitamin E (alpha-tocopherol)_mg 6.56
Go to the top of the page
 
+Quote Post
KinhThanh
bài Jan 30 2011, 07:07 AM
Bài viết #40


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Bạc hà, tươi = Peppermint, fresh = 100g
Nước_____________________g 78.65
Energy, năng lượng_______kcal 70
Protein____________________g 3.75
Total lipid (fat )______________g 0.94
Fiber, Chất xơ______________g 8.0
Calcium, Ca______________mg 243
Iron, Fe__________________mg 5.08
Magnesium,Mg____________mg 80
Phosphorus, P____________mg 73
Potassium, K_____________mg 569
Sodium, Na_______________mg 31
Zinc , Zn_________________mg 1.11
Copper ,Cu_______________mg 0.329
Manganese,Mn____________mg 1.176
Vitamin C________________mg 31.8
Thiamin ,B-1______________mg 0.082
Riboflavin, B-2_____________mg 0.266
Niacin ,PP;B-3____________mg 1.706
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.338
Vitamin B-6_______________mg 0.129
Folate, total B-9__________mcg 114
Folate, food B-9__________mcg 114
Folate, DFE B-9__________mcg 114
Vitamin A, RAE___________mcg 212
Vitamin A, IU_______________IU 4248
Phytosterols______________mg 13
---------------------------------------------------------------
Gia vị, hạt tiêu, màu đen = Spices, pepper, black = 100g
Nước_____________________g 12.46
Energy, năng lượng_______kcal 251
Protein____________________g 10.39
Total lipid (fat )______________g 3.26
Fiber, Chất xơ______________g 25.3
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 0.64
Calcium, Ca______________mg 443
Iron, Fe__________________mg 9.71
Magnesium,Mg____________mg 171
Phosphorus, P____________mg 158
Potassium, K_____________mg 1329
Sodium, Na_______________mg 20
Zinc , Zn_________________mg 1.19
Copper ,Cu_______________mg 1.330
Manganese,Mn____________mg 12.753
Fluoride, F_______________mcg 34.2
Selenium _______________mcg 4.9
Thiamin ,B-1______________mg 0.108
Riboflavin, B-2_____________mg 0.180
Niacin ,PP;B-3____________mg 1.143
Pantothenic acid,B-5_______mg 1.399
Vitamin B-6_______________mg 0.291
Folate, total B-9__________mcg 7
Folate, food B-9__________mcg 17
Folate, DFE B-9__________mcg 17
Choline, total______________mg 11.3
Betaine___________________mg 8.9
Vitamin B-12_____________mcg
Vitamin A, RAE__________mcg 27
Carotene, beta____________mcg 310
Carotene, alpha___________mcg 12
Cryptoxanthin, beta________mcg 25
Vitamin A__________________IU 547
Lycopene________________mcg 20
Lutein + zeaxanthin________mcg 454
Vitamin E (alpha-tocopherol)_mg 1.04
Tocopherol,gamma_________mg 6.56
Vitamin K _______________mcg 163.7
Phytosterols______________mg 92

Gia vị, hạt tiêu, màu đỏ hoặc Cayenne = Spices, pepper, red or cayenne = 100g
Nước_____________________g 8.05
Energy, năng lượng_______kcal 318
Protein____________________g 12.01
Total lipid (fat )______________g 17.27
Fiber, Chất xơ______________g 27.2
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 10.34
Calcium, Ca______________mg 148
Iron, Fe__________________mg 7.80
Magnesium,Mg____________mg 152
Phosphorus, P____________mg 293
Potassium, K_____________mg 2914
Sodium, Na_______________mg 30
Zinc , Zn_________________mg 2.48
Copper ,Cu_______________mg 0.373
Manganese,Mn____________mg 2.000
Selenium________________mcg 8.8
Vitamin C________________mg 76.4
Thiamin ,B-1______________mg 0.328
Riboflavin, B-2_____________mg 0.919
Niacin ,PP;B-3____________mg 8.701
Vitamin B-6_______________mg 2.450
Folate, total B-9__________mcg 106
Folate, food B-9__________mcg 106
Folate, DFE B-9__________mcg 106
Choline, total______________mg 51.5
Betaine___________________mg
Vitamin B-12_____________mcg
Vitamin A, RAE___________mcg 2081
Retinol__________________mcg
Carotene, beta____________mcg 21840
Carotene, alpha___________mcg
Cryptoxanthin, beta________mcg 6251
Vitamin A, IU_______________IU 41610
Lutein + zeaxanthin________mcg 13157
Vitamin E (alpha-tocopherol)__mg 29.83
Vitamin K _______________mcg 80.3
Phytosterols______________mg 83

Gia vị, hạt tiêu, trắng = Spices, pepper, white = 100g
Nước_____________________g 11.42
Energy, năng lượng_______kcal 296
Protein____________________g 10.40
Total lipid (fat )______________g 2.12
Fiber, Chất xơ______________g 26.2
Calcium, Ca______________mg 265
Iron, Fe__________________mg 14.31
Magnesium,Mg____________mg 90
Phosphorus, P____________mg 176
Potassium, K_____________mg 73
Sodium, Na_______________mg 5
Zinc , Zn_________________mg 1.13
Copper ,Cu_______________mg 0.910
Manganese,Mn____________mg 4.300
Selenium _______________mcg 3.1
Vitamin C________________mg 21.0
Thiamin ,B-1______________mg 0.022
Riboflavin, B-2_____________mg 0.126
Niacin ,PP;B-3____________mg 0.212
Vitamin B-6_______________mg 0.100
Folate, total B-9__________mcg 10
Folate, food B-9__________mcg 10
Folate, DFE B-9__________mcg 10
Phytosterols______________mg 55

Hạt tiêu, ancho, sấy khô = Pepper, ancho, dried = 100g
Nước_____________________g 22.63
Energy, năng lượng_______kcal 281
Protein____________________g 11.86
Total lipid (fat )______________g 8.20
Fiber, Chất xơ______________g 21.6
Calcium, Ca______________mg 61
Iron, Fe__________________mg 10.93
Magnesium,Mg____________mg 113
Phosphorus, P____________mg 201
Potassium, K_____________mg 2411
Sodium, Na_______________mg 43
Zinc , Zn_________________mg 1.42
Copper ,Cu_______________mg 0.508
Manganese,Mn____________mg 1.279
Selenium________________mcg 2.9
Vitamin C________________mg 2.0
Thiamin ,B-1______________mg 0.179
Riboflavin, B-2_____________mg 2.255
Niacin ,PP;B-3____________mg 6.403
Pantothenic acid,B-5_______mg 1.993
Vitamin B-6_______________mg 3.535
Folate, total B-9__________mcg 69
Folate, food B-9__________mcg 69
Folate, DFE B-9__________mcg 69
Vitamin A, RAE___________mcg 1022
Vitamin A, IU_______________IU 20438

Hạt tiêu, chuối, nguyên = Pepper, banana, raw = 100g
Nước_____________________g 91.81
Energy, năng lượng_______kcal 27
Protein____________________g 1.66
Total lipid (fat )______________g 0.45
Fiber, Chất xơ______________g 3.4
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 1.95
Calcium, Ca______________mg 14
Iron, Fe__________________mg 0.46
Magnesium,Mg____________mg 17
Phosphorus, P____________mg 32
Potassium, K_____________mg 256
Sodium, Na_______________mg 13
Zinc , Zn_________________mg 0.25
Copper ,Cu_______________mg 0.094
Manganese,Mn____________mg 0.100
Selenium _______________mcg 0.3
Vitamin C________________mg 82.7
Thiamin ,B-1______________mg 0.081
Riboflavin, B-2_____________mg 0.054
Niacin ,PP;B-3____________mg 1.265
Vitamin B-6_______________mg 0.357
Folate, total B-9__________mcg 29
Folate, food B-9__________mcg 29
Folate, DFE B-9__________mcg 29
Choline, total______________mg 7.4
Vitamin A, RAE__________mcg 17
Carotene, beta____________mcg 184
Carotene, alpha___________mcg 39
Vitamin A, IU_______________IU 340
Vitamin E (alpha-tocopherol)_mg 0.69
Vitamin K _______________mcg 9.5
Phytosterols______________mg 3
Campesterol______________mg 1
Beta-sitosterol____________mg 2

Hạt tiêu, Serrano, nguyên = Pepper, serrano, raw = 100g
Nước_____________________g 90.25
Energy, năng lượng_______kcal 32
Protein____________________g 1.74
Total lipid (fat )______________g 0.44
Fiber, Chất xơ______________g 3.7
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 3.83
Calcium, Ca______________mg 11
Iron, Fe__________________mg 0.86
Magnesium,Mg____________mg 22
Phosphorus, P____________mg 40
Potassium, K_____________mg 305
Sodium, Na_______________mg 10
Zinc , Zn_________________mg 0.26
Copper ,Cu_______________mg 0.129
Manganese,Mn____________mg 0.187
Selenium________________mcg 0.4
Vitamin C________________mg 44.9
Thiamin ,B-1______________mg 0.054
Riboflavin, B-2_____________mg 0.081
Niacin ,PP;B-3____________mg 1.537
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.200
Vitamin B-6_______________mg 0.505
Folate, total B-9__________mcg 23
Folate, food B-9__________mcg 23
Folate, DFE B-9__________mcg 23
Choline, total______________mg 8.9
Vitamin A, RAE___________mcg 47
Carotene, beta____________mcg 534
Carotene, alpha___________mcg 18
Cryptoxanthin, beta________mcg 40
Vitamin A, IU_______________IU 9370.69
Lutein + zeaxanthin________mcg 544
Vitamin E (alpha-tocopherol)__mg 0.69
Vitamin K _______________mcg 11.8
Phytosterols______________mg 6
Campesterol______________mg 2
Beta-sitosterol____________mg 3
---------------------------------------------------------------
Ớt, nóng chile, phơi khô = Peppers, hot chile, sun-dried = 100g
Nước_____________________g 7.15
Energy, năng lượng_______kcal 324
Protein____________________g 10.58
Total lipid (fat )______________g 5.81
Fiber, Chất xơ______________g 28.7
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 41.06
Calcium, Ca______________mg 45
Iron, Fe__________________mg 6.04
Magnesium,Mg____________mg 88
Phosphorus, P____________mg 159
Potassium, K_____________mg 1870
Sodium, Na_______________mg 91
Zinc , Zn_________________mg 1.02
Copper ,Cu_______________mg 0.228
Manganese,Mn____________mg 0.821
Selenium _______________mcg 3.5
Vitamin C________________mg 31.4
Thiamin ,B-1______________mg 0.081
Riboflavin, B-2_____________mg 1.205
Niacin ,PP;B-3____________mg 8.669
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.956
Vitamin B-6_______________mg 0.810
Folate, total B-9__________mcg 51
Folate, food B-9__________mcg 51
Folate, DFE B-9__________mcg 51
Choline, total______________mg 84.3
Vitamin A, RAE__________mcg 1324
Carotene, beta____________mcg 14844
Carotene, alpha___________mcg 994
Cryptoxanthin, beta________mcg 1103
Vitamin A, IU_______________IU 26488
Lutein + zeaxanthin________mcg 5494
Vitamin E (alpha-tocopherol)_mg 3.14
Vitamin K _______________mcg 108.2

Ớt, nóng ớt, màu xanh lá cây, nguyên = Peppers, hot chili, green, raw = 100g
Nước_____________________g 87.74
Energy, năng lượng_______kcal 40
Protein____________________g 2.00
Total lipid (fat )______________g 0.20
Fiber, Chất xơ______________g 1.5
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 5.10
Calcium, Ca______________mg 18
Iron, Fe__________________mg 1.20
Magnesium,Mg____________mg 25
Phosphorus, P____________mg 46
Potassium, K_____________mg 340
Sodium, Na_______________mg 7
Zinc , Zn_________________mg 0.30
Copper ,Cu_______________mg 0.174
Manganese,Mn____________mg 0.237
Selenium________________mcg 0.5
Vitamin C________________mg 242.5
Thiamin ,B-1______________mg 0.090
Riboflavin, B-2_____________mg 0.090
Niacin ,PP;B-3____________mg 0.950
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.061
Vitamin B-6_______________mg 0.287
Folate, total B-9__________mcg 23
Folate, food B-9__________mcg 23
Folate, DFE B-9__________mcg 23
Choline, total______________mg 11.1
Vitamin A, RAE___________mcg 59
Carotene, beta____________mcg 671
Carotene, alpha___________mcg 23
Cryptoxanthin, beta________mcg 50
Lutein + zeaxanthin________mcg 725
Vitamin E (alpha-tocopherol)__mg 0.69
Vitamin K _______________mcg 14.3

Ớt, nóng đỏ, nguyên = Peppers, hot chili, red, raw = 100g
Nước_____________________g 88.02
Energy, năng lượng_______kcal 40
Protein____________________g 1.87
Total lipid (fat )______________g 0.44
Fiber, Chất xơ______________g 1.5
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 5.30
Calcium, Ca______________mg 14
Iron, Fe__________________mg 1.03
Magnesium,Mg____________mg 23
Phosphorus, P____________mg 43
Potassium, K_____________mg 322
Sodium, Na_______________mg 9
Zinc , Zn_________________mg 0.26
Copper ,Cu_______________mg 0.129
Manganese,Mn____________mg 0.187
Selenium _______________mcg 0.5
Vitamin C________________mg 143.7
Thiamin ,B-1______________mg 0.072
Riboflavin, B-2_____________mg 0.086
Niacin ,PP;B-3____________mg 1.244
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.201
Vitamin B-6_______________mg 0.506
Folate, total B-9__________mcg 23
Folate, food B-9__________mcg 23
Folate, DFE B-9__________mcg 23
Choline, total______________mg 10.9
Vitamin A, RAE__________mcg 48
Carotene, beta____________mcg 534
Carotene, alpha___________mcg 36
Cryptoxanthin, beta________mcg 40
Vitamin A, IU_______________IU 952
Lutein + zeaxanthin________mcg 709
Vitamin E (alpha-tocopherol)_mg 0.69
Vitamin K _______________mcg 14

Ớt, hungarian, nguyên = Peppers, hungarian, raw = 100g
Nước_____________________g 91.51
Energy, năng lượng_______kcal 29
Protein____________________g 0.80
Total lipid (fat )______________g 0.41
Fiber, Chất xơ______________g
Sugars, total ( đường ,tổng )__g
Calcium, Ca______________mg 12
Iron, Fe__________________mg 0.46
Magnesium,Mg____________mg 16
Phosphorus, P____________mg 29
Potassium, K_____________mg 202
Sodium, Na_______________mg 1
Zinc , Zn_________________mg 0.30
Copper ,Cu_______________mg 0.115
Manganese,Mn____________mg 0.204
Selenium________________mcg 0.3
Vitamin C________________mg 92.9
Thiamin ,B-1______________mg 0.079
Riboflavin, B-2_____________mg 0.055
Niacin ,PP;B-3____________mg 1.092
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.205
Vitamin B-6_______________mg 0.517
Folate, total B-9__________mcg 53
Folate, food B-9__________mcg 53
Folate, DFE B-9__________mcg 53
Vitamin A, RAE___________mcg 7
Vitamin A, IU_______________IU 140

ớt, jalapeno, nguyên = Peppers, jalapeno, raw = 100g
Nước_____________________g 91.69
Energy, năng lượng_______kcal 29
Protein____________________g 0.91
Total lipid (fat )______________g 0.37
Fiber, Chất xơ______________g 2.8
Sugars, total ( đường ,tổng )__g 4.12
Calcium, Ca______________mg 12
Iron, Fe__________________mg 0.25
Magnesium,Mg____________mg 15
Phosphorus, P____________mg 26
Potassium, K_____________mg 248
Sodium, Na_______________mg 3
Zinc , Zn_________________mg 0.14
Copper ,Cu_______________mg 0.046
Manganese,Mn____________mg 0.097
Selenium _______________mcg 0.4
Vitamin C________________mg 118.6
Thiamin ,B-1______________mg 0.040
Riboflavin, B-2_____________mg 0.070
Niacin ,PP;B-3____________mg 1.280
Pantothenic acid,B-5_______mg 0.315
Vitamin B-6_______________mg 0.419
Folate, total B-9__________mcg 27
Folate, food B-9__________mcg 27
Folate, DFE B-9__________mcg 27
Choline, total______________mg 7.5
Carotene, beta____________mcg 561
Carotene, alpha___________mcg 67
Cryptoxanthin, beta________mcg 105
Vitamin A, IU_______________IU 1078
Lutein + zeaxanthin________mcg 861
Vitamin E (alpha-tocopherol)_mg 3.58
Tocopherol,gamma_________mg 0.05
Tocopherol, delta __________mg 0.01
Vitamin K _______________mcg 18.5

Ớt, pasilla, sấy khô = Peppers, pasilla, dried = 100g
Nước_____________________g 14.84
Energy, năng lượng_______kcal 345
Protein____________________g 12.35
Total lipid (fat )______________g 15.85
Fiber, Chất xơ______________g 26.8
Calcium, Ca______________mg 97
Iron, Fe__________________mg 9.83
Magnesium,Mg____________mg 130
Phosphorus, P____________mg 267
Potassium, K_____________mg 2222
Sodium, Na_______________mg 89
Zinc , Zn_________________mg 1.40
Copper ,Cu_______________mg 0.423
Manganese,Mn____________mg 1.580
Selenium________________mcg 3.2
Vitamin C________________mg 6.4
Thiamin ,B-1______________mg 0.172
Riboflavin, B-2_____________mg 3.197
Niacin ,PP;B-3____________mg 7.175
Pantothenic acid,B-5_______mg 1.591
Vitamin B-6_______________mg 4.228
Folate, total B-9__________mcg 170
Folate, food B-9__________mcg 170
Folate, DFE B-9__________mcg 170
Vitamin A, RAE___________mcg 1788
Vitamin A, IU_______________IU 35760
Go to the top of the page
 
+Quote Post

5 Trang V  « < 2 3 4 5 >
Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 20th June 2025 - 08:05 PM